$('.body .wrap-content .nhomtintuc').each(function() { $(this).find('header').insertBefore($(this).find('.img')).addClass('row p-2'); }); $(".body .wrap-content .nhomtintuc .card").removeClass("flex-sm-row"); $(".trangchu .wrap-content .ct13960 .tinchinh header").insertBefore('.trangchu .wrap-content .ct13960 .tinchinh .tomtat'); $('.desktopversion header .navbar').removeClass("bg-success text-light").addClass("bg-light text-dark"); $('.desktopversion header .navbar .nav-pr').removeClass("text-light").addClass("text-dark");
»
Đào tạo
»
»
Thần học

Tông Huấn HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ- Chương V: Cuộc chiến đấu thiêng liêng, tỉnh thức và phân định

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 669 | Cật nhập lần cuối: 4/25/2018 4:01:17 PM | RSS

TÔNG HUẤN HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ (GAUDETE ET EXSULTATE)

(tiếp theo và hết)

– Lm Lê Công Đức, PSS., dịch –

CHƯƠNG V

CUỘC CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG, TỈNH THỨC VÀ PHÂN ĐỊNH

  1. Đời sống Kitô hữu là một trận chiến không ngừng. Chúng ta cần sức mạnh và can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ và để loan báo Tin Mừng. Đây là trận chiến ngọt ngào, vì nó cho phép ta hoan hỉ mỗi lần Chúa khải thắng trong cuộc đời chúng ta.

CHIẾN ĐẤU VÀ TỈNH THỨC

  1. Chúng ta đang nói đến không chỉ cuộc chiến đấu chống lại thế gian và một não trạng trần tục đánh lừa mình, làm mình trở nên đần độn và xoàng xĩnh, thiếu nhiệt huyết và niềm vui. Cũng không thể giảm trừ cuộc chiến đấu này đến chỉ còn là chiến đấu chống lại những yếu đuối và những xu hướng của con người (dù đó là lười biếng, dâm dục, tham lam, ghen tị hay bất cứ gì khác). Đây còn là cuộc chiến đấu không ngừng chống lại ma quỉ, ông hoàng của sự dữ. Chính Chúa Giêsu mừng chiến thắng của chúng ta. Người hân hoan khi các môn đệ Người tiến hành tốt việc rao giảng Tin Mừng và thắng được sự đối đầu của thần dữ: “Thầy trông thấy Satan từ trời sa xuống như tia chớp” (Lc 10,18).

Hơn là một thần thoại

  1. Chúng ta sẽ không nhìn nhận rằng ma quỉ có thực, nếu khư khư nhìn đời sống chỉ bằng những tiêu chuẩn thường nghiệm, mà không có một nhận hiểu siêu nhiên. Quyền lực thâm hiểm này có mặt giữa chúng ta, xác tín này giúp ta hiểu tại sao có những lúc ma quỉ có sức mạnh hủy diệt đến vậy. Quả thực, các tác giả Thánh Kinh có sự hạn chế trong nhận thức khi diễn tả một số thực tại, và vào thời Chúa Giêsu thì sự động kinh, chẳng hạn, có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với tình trạng quỉ ám. Nhưng điều này không nên dẫn chúng ta tới một sự đơn giản hóa quá mức để kết luận rằng mọi trường hợp liên quan trong Tin Mừng đều có liên hệ với những rối loạn tâm lý, và vì thế ma quỉ không hiện hữu hay không hoạt động. Ma quỉ hiện hữu ngay nơi những trang đầu của Kinh Thánh, mà rốt cục là Thiên Chúa chiến thắng trên thần dữ. [120] Thật vậy, khi dạy chúng ta Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu muốn chúng ta kết thúc bằng việc xin Cha “cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Từ cuối cùng ấy không qui chiếu đến sự dữ một cách trừu tượng; một bản dịch chính xác hẳn sẽ nói là “thần dữ”. Nó hướng chỉ một hữu thể có ngôi vị tấn công chúng ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta hằng ngày cầu nguyện xin được giải thoát khỏi nó, để quyền lực của nó không thống trị chúng ta.
  2. Vì thế, chúng ta không nên nghĩ về ma quỉ như một thần thoại, một tượng trưng, một biểu tượng, một hình tượng ngôn ngữ hay một ý niệm. [121] Sai lầm này sẽ dẫn ta tới chỗ khinh suất, bất cẩn và cuối cùng sẽ càng chênh vênh hơn. Ma quỉ không cần ám chúng ta. Nó đầu độc chúng ta với nọc độc hận thù, u uất, tham lam và đồi bại. Khi chúng ta khinh suất mất cảnh giác, nó lợi dụng thời cơ để phá hoại đời sống chúng ta, gia đình và cộng đoàn chúng ta. “Như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cấu xé” (1Pr 5,8).

Cảnh giác và tin tưởng

  1. Lời Chúa rõ ràng mời gọi chúng ta “đứng vững trước những mưu chước của ma quỉ” (Ep 6,11) và “dập tắt mọi mũi tên lửa của ác thần” (Ep 6,16). Những diễn tả này không hề cường điệu, bởi vì con đường nên thánh của chúng ta là một trận chiến liên lỉ. Những ai không nhận ra điều này sẽ làm mồi cho sự thất bại và xoàng xĩnh. Để chiến đấu trong cuộc chiến thiêng liêng này, chúng ta có thể dựa vào những vũ khí mạnh mẽ Chúa ban cho mình: cầu nguyện với thấm đẫm đức tin, suy niệm lời Chúa, cử hành Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, lãnh bí tích Hòa Giải, làm việc bác ái, sống cộng đoàn, đi ra trong sứ mạng. Nếu chúng ta không bảo trọng, những lời hứa lừa gạt của ma quỉ sẽ dễ dàng dụ dỗ ta. Như cha Thánh Brochero ghi nhận: “Đâu là điều tốt đẹp khi Lucifer hứa cho bạn tự do, và tưới trên bạn tất cả những lợi lộc của nó, song đó lại là những lợi lộc giả tạo, lừa dối và độc hại?” [122]
  2. Dọc hành trình này, việc vun xới tất cả những gì là tốt đẹp, sự tiến triển trong đời sống thiêng liêng và sự lớn lên trong tình yêu sẽ là đối trọng tốt nhất chống lại ma quỉ. Những ai chọn giữ trung lập, những ai hài lòng với sự ít ỏi, những ai từ bỏ lý tưởng trao hiến chính mình cách quảng đại cho Chúa, họ sẽ không bao giờ đứng vững. Càng không thể đứng vững nếu người ta chủ bại, vì “nếu chúng ta bắt đầu với không chút tin tưởng, chúng ta đã thua nửa trận chiến rồi, và tự chôn vùi các khả năng của mình… Chiến thắng của Kitô giáo luôn luôn là một thập giá, nhưng thập giá ấy đồng thời là ngọn cờ chiến thắng, được mang vác với sự hiền dịu bất khuất chống lại những tấn công của ma quỉ”. [123]

Sự hư hỏng tâm linh

  1. Con đường thánh thiện là nguồn của bình an và niềm vui mà Chúa Thánh Thần ban tặng chúng ta. Đồng thời, nó đòi hỏi chúng ta giữ “ngọn đèn cháy sáng” (Lc 12,35) và tỉnh thức. “Hãy tránh xa mọi điều xấu, dưới bất cứ hình thức nào” (1Tx 5,22). “Hãy tỉnh thức” (Mt 24,42; Mc 13,35). “Chúng ta đừng mê ngủ” (1Tx 5,6). Những ai nghĩ rằng mình không phạm tội nặng nề chống lại luật Thiên Chúa thì có thể rơi vào một tình trạng u mê. Vì họ không nhận ra điều gì hệ trọng để ăn năn, họ không nhận ra rằng đời sống thiêng liêng của mình đang dần trở nên nguội lạnh. Cuối cùng họ yếu nhược và hư hỏng.
  2. Sự hư hỏng tâm linh thì tệ hại hơn cả sự sa ngã của một tội nhân, vì đó là một dạng mù quáng mà người ta cảm thấy thỏa mãn và yên ổn. Bấy giờ mọi sự được chấp nhận: dối trá, vu khống, tự cao và các hình thức qui ngã khác, vì “thậm chí Satan đội lốt một thiên thần của ánh sáng” (2Cr 11,14). Salômôn đã kết thúc cuộc đời như thế, trong khi Đavit, từng phạm tội tày đình, đã có thể sửa chữa lỗi lầm của mình. Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta chống lại sự tự lừa dối này, điều vốn dễ dẫn ta tới hư hỏng. Người nói về một người được giải thoát khỏi tên quỉ, nhưng nghĩ rằng đời sống của mình giờ đây đã ổn, vì thế cuối cùng bị khống chế bởi bảy thần dữ khác (x. Lc 11,24-26). Một bản văn Thánh Kinh khác diễn tả điều này một cách khủng khiếp: “Chó mửa ra, chó liền ăn lại” (2Pr 2,22; x. Cn 26,11).

PHÂN ĐỊNH

  1. Bằng cách nào chúng ta biết một điều gì đó đến từ Thánh Thần hay đến từ tinh thần của thế gian hoặc tinh thần của ma quỉ? Cách duy nhất là phân định, việc này đòi hỏi một điều gì đó hơn là trí năng hay lương thức. Đó là một ân ban mà chúng ta phải cầu xin. Nếu ta cầu xin với lòng tin tưởng Chúa Thánh Thần ban cho mình ơn này, rồi tìm cách phát triển nó trong cầu nguyện, suy tư, đọc và bàn hỏi, thì chắc chắn chúng ta sẽ lớn lên trong khả năng thiêng liêng này.

Một nhu cầu khẩn thiết

  1. Ơn phân định càng cần thiết hôm nay, vì đời sống hiện đại mở ra cơ man khả năng hành động và tiêu khiển, và thế giới trình bày tất cả chúng như cái gì hợp lệ và tốt. Tất cả chúng ta, đặc biệt là giới trẻ, bị nhận chìm trong một nền văn hóa vồ vập hối hả. Chúng ta có thể cùng một lúc lướt qua hai hay ba màn hình và tương tác đồng thời với hai hay ba chuyện ảo. Không có sự khôn ngoan phân định, chúng ta dễ dàng trở thành mồi ngon cho mọi trào lưu rẻ tiền.
  2. Điều này càng quan trọng hơn khi một cái gì mới mẻ bỗng xuất hiện trong đời sống. Bấy giờ chúng ta phải xác định xem nó có phải là rượu mới do Thiên Chúa đem lại, hay chỉ là một ảo ảnh đánh lừa được tạo ra bởi tinh thần thế tục hay tinh thần của ma quỉ. Có những lúc khác, xảy ra điều ngược lại, khi các sức mạnh của sự dữ xúi ta đừng thay đổi, cứ giữ mọi sự y như thế, và chọn thái độ khư khư đề kháng chống lại thay đổi. Nhưng như vậy là cản trở hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta tự do, với sự tự do của Đức Kitô. Tuy nhiên, Người mời gọi ta khảo sát những gì ở bên trong mình – những dục vọng, lo lắng, sợ hãi và nghi nan – và những gì diễn ra xung quanh mình – “các dấu chỉ của thời đại” – và qua đó nhận ra những nẻo đường dẫn tới sự tự do hoàn toàn. “Hãy khảo sát mọi sự; hãy bám vững những gì là tốt lành” (1Tx 5,21).

Luôn ở trong ánh sáng của Chúa

  1. Phân định là việc cần thiết không chỉ vào những thời khắc đặc biệt, khi chúng ta cần giải quyết những vấn đề lớn và đưa ra những quyết định quan trọng. Nó là một phương thế của cuộc chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta đi theo Chúa cách trung thành hơn. Chúng ta cần phân định mọi lúc, để có thể nhận ra kế hoạch mà Chúa sắp xếp, hầu tránh bỏ hụt những gợi ý Ngài ban cho và tránh xem thường lời Ngài mời gọi ta lớn lên. Rất thường, việc phân định được làm trong những việc nhỏ và có vẻ không phù hợp, vì sự cao cả của tinh thần được thể hiện trong những thực tại đơn giản hằng ngày. [124] Nó liên quan đến việc cố gắng sao cho không cản trở tất cả những gì là cao quí, những gì là tốt hơn và đẹp hơn, trong khi đồng thời quan tâm đến những chuyện nhỏ, những bổn phận và trách nhiệm trong đời sống hằng ngày. Vì thế, tôi kêu gọi tất cả các Kitô hữu đừng bỏ qua việc “khảo sát lương tâm” hằng ngày cách chân thành, được làm trong đối thoại với Chúa. Việc phân định cũng giúp chúng ta nhận ra những phương tiện cụ thể mà Chúa cung cấp trong kế hoạch yêu thương mầu nhiệm của Người, để thúc đẩy chúng ta không dừng lại chỉ ở những ý hướng tốt lành mà thôi.

Một ân ban siêu nhiên

  1. Chắc chắn việc phận định thiêng liêng không loại trừ những hiểu biết về hiện sinh, tâm lý, xã hội, hay luân lý rút từ các khoa học nhân văn. Đồng thời, nó siêu vượt các khoa học ấy. Các qui tắc đúng đắn của Giáo hội cũng không đủ. Chúng ta phải luôn nhớ rằng phân định là một ân sủng. Ngay cả dù nó bao gồm lý trí và sự khôn ngoan, nó vẫn vượt quá những điều ấy, vì nó tìm cách để có một cái nhìn thoáng kế hoạch nhiệm mầu và độc đáo mà Thiên Chúa định cho mỗi chúng ta, được định hình giữa rất nhiều hoàn cảnh và giới hạn khác nhau. Nó liên quan đến nhiều hơn là thiện ích đời này của tôi, sự mãn nguyện của tôi vì đạt được một cái gì đó hữu ích, hay thậm chí niềm khao khát bình an trong tâm trí của tôi. Nó liên hệ tới ý nghĩa cuộc sống của tôi trước mặt Chúa, Đấng biết và yêu tôi, và liên hệ tới mục đích thực sự của đời tôi, mà không ai biết rõ hơn chính Chúa. Cuối cùng, việc phân định dẫn tới nguồn mạch của sự sống bất diệt, đó là nhận biết Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất, và Đấng Chúa Cha sai đến là Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Việc phân định không đòi hỏi những khả năng đặc biệt, nó cũng không dành riêng chỉ cho những người thông minh hay đặc biệt học cao hiểu rộng. Chúa Cha sẵn sàng mặc khải chính Ngài cho những kẻ bé mọn (x. Mt 11,25).
  2. Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách, ví dụ, tại sở làm, qua những người khác, và vào bất cứ lúc nào. Nhưng rõ ràng chúng ta cần có sự thinh lặng của việc cầu nguyện thâm sâu, trong đó chúng ta dễ nắm hiểu tiếng nói của Chúa hơn, dễ diễn dịch ý nghĩa thực của những gợi ý mà ta tin rằng mình nhận được, dễ xua tan những lo lắng của mình và nhìn thấy toàn thể hiện hữu của mình cách mới mẻ trong ánh sáng của Chúa. Bằng cách này, chúng ta cho phép sự khai sinh của một tổng hợp mới vọt ra từ một đời sống được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa, xin hãy phán

  1. Tuy nhiên, có thể là ngay cả trong cầu nguyện, chúng ta cũng từ chối không cho phép mình đối diện với sự tự do của Chúa Thánh Thần, Đấng hành động hoàn toàn tự do. Chúng ta phải nhớ rằng việc phân định trong bầu khí cầu nguyện phải xuất phát từ một thái độ sẵn sàng lắng nghe: nghe Chúa, nghe người khác, và lắng nghe chính thực tại, vốn luôn thách đố chúng ta bằng những cách mới mẻ. Chỉ khi chúng ta đã sẵn sàng lắng nghe, thì chúng ta mới có đủ tự do để gác qua một bên những ý tưởng bất cập hay phiến diện của mình, những thói quen thường tình của mình và những cách mình nhìn mọi sự. Nhờ đó, chúng ta trở nên thực sự mở lòng ra để đón nhận một tiếng gọi có thể làm xáo trộn sự an toàn của mình, nhưng dẫn mình tới một đời sống tốt hơn. Thật không đủ duy chỉ sự kiện rằng mọi sự êm xuôi và ổn thỏa. Thiên Chúa có thể trao cho chúng ta một cái gì đó hơn thế, nhưng nếu cứ không chú tâm, thì chúng ta không thể nhận ra.
  2. Một cách tự nhiên, thái độ lắng nghe này gắn với tinh thần vâng phục đối với Tin Mừng xét như tiêu chuẩn tối hậu, và vâng phục cả đối với Huấn quyền vốn có nhiệm vụ bảo vệ tiêu chuẩn tối hậu ấy, khi chúng ta kiếm trong kho tàng của Giáo hội bất cứ gì có hiệu quả nhất cho công trình cứu độ “hôm nay”. Đó không phải là vấn đề áp dụng những qui tắc hay lặp lại những gì đã được làm trong quá khứ, bởi vì cùng những giải pháp nào đó thì không có hiệu lực trong tất cả mọi trường hợp, và điều hữu ích trong bối cảnh này thì có thể không hữu ích trong bối cảnh khác. Việc phân định các thần loại giải phóng chúng ta khỏi sự cứng nhắc, vốn không có chỗ trước cái “hôm nay” thường hằng của Chúa Phục sinh. Chỉ một mình Chúa Thánh Thần mới có thể xuyên thấu những gì mờ khuất và giấu ẩn trong mọi cảnh huống, và mới có thể nắm bắt mọi sắc thái của nó, để cho tính mới mẻ của Tin Mừng có thể hiện lộ trong một ánh sáng khác.

Luận lý của sự trao ban và của thập giá

  1. Một điều kiện thiết yếu để thăng tiến trong phân định, đó là việc nhận hiểu hơn nữa về sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và sự sắp xếp của Ngài, nó không bao giờ là sự sắp xếp của chúng ta. Thiên Chúa không đổ lửa xuống thiêu đốt những người bất trung (x. Lc 9,54), hay cho phép những người bốc đồng ra tay nhổ cỏ lùng mọc giữa lúa (x. Mt 13,29). Cũng cần phải có sự quảng đại, vì “cho thì tốt hơn là nhận” (Cv 20,35). Phân định không phải là để khám phá xem chúng ta có thể thu nhận gì thêm từ đời sống này, nhưng là để nhận ra bằng cách nào chúng ta có thể hoàn thành tốt hơn sứ mạng được ủy thác cho mình qua Phép Rửa. Điều này đòi một thái độ sẵn sàng hy sinh, ngay cả hy sinh mọi sự. Vì hạnh phúc là một nghịch lý. Chúng ta kinh nghiệm nó nhiều nhất khi chúng ta chấp nhận cái luận lý mầu nhiệm vốn không thuộc thế giới này: “Đây là luận lý của chúng tôi”, Thánh Bônavetura đã nói thế khi hướng chỉ về thập giá. [125] Một khi chúng ta đi vào trong năng động này, chúng ta sẽ không cho phép lương tâm mình bị tê cứng, và chúng ta sẽ cởi mở chính mình một cách quảng đại để phân định.
  2. Trong sự hiện diện của Thiên Chúa, khi chúng ta khảo sát hành trình đời sống của mình, không có lãnh vực nào là ngoài giới hạn. Trong tất cả các khía cạnh của đời sống, chúng ta đều có thể lớn lên và dâng hiến một cái gì đó quí hơn cho Thiên Chúa, ngay cả trong những lãnh vực mà ta thấy là khó khăn nhất. Nhưng chúng ta cần xin Chúa Thánh Thần giải phóng mình, và xua đuổi nỗi sợ vốn khiến ta gây cản trở sự thâm nhập của Thánh Thần vào một số vùng nào đó trong đời sống mình. Thiên Chúa mời gọi ta mọi thứ, nhưng Ngài cũng trao ban mọi thứ cho ta. Ngài không muốn đi vào đời sống chúng ta để làm mọi thứ bị què quặt hay tàn tạ, nhưng là để đưa chúng tới viên mãn. Vì thế phân định không phải là việc phân tích bản thân có tính qui ngã hay một hình thức nội quan nhuốm màu ích kỷ, nhưng đó là một tiến trình chân thực vượt qua chính mình để tiếp cận mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng giúp chúng ta đảm nhận sứ mạng mà Ngài mời gọi, vì ích lợi của anh chị em mình.

* * *

  1. Tôi muốn khép lại những suy tư này bằng vương miện của Đức Maria, vì Mẹ sống Các Mối Phúc của Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Mẹ là người phụ nữ hoan hỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ghi nhớ mọi sự trong lòng, và chấp nhận lưỡi gươm đâm thâu. Mẹ là vị thánh giữa các thánh, và được chúc phúc trên hết các thánh. Mẹ dạy chúng ta con đường nên thánh và Mẹ luôn bước đi bên cạnh chúng ta. Mẹ không để mặc chúng ta trong tình trạng sa ngã, và có những lúc Mẹ dang tay ôm lấy chứ không kết án chúng ta. Chuyện trò với Mẹ, chúng ta sẽ được an ủi, được giải phóng và được thánh hóa. Đức Maria, Mẹ chúng ta, không cần nhiều lời. Mẹ không cần chúng ta kể lể với Mẹ về những gì đang xảy ra trong đời sống mình. Chúng ta chỉ cần thì thầm, lặp đi lặp lại: “Kính mừng Maria…”
  2. Tôi hy vọng những trang này sẽ nên hữu ích trong việc giúp toàn thể Giáo hội dấn thân một cách mới mẻ thúc đẩy khát vọng nên thánh. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đổ tràn trên mình một khát khao cháy bỏng nên thánh, để vinh danh Chúa hơn, và chúng ta hãy khích lệ nhau trong nỗ lực này. Nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ một hạnh phúc mà thế gian này không thể tước khỏi chúng ta.

Tại Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô, ngày 19 tháng 3, Lễ trọng kính Thánh Giuse, năm 2018, năm thứ sáu triều Giáo hoàng của tôi.

Phanxicô

[1] BIỂN ĐỨC XVI, Bài giảng lễ nhậm chức Sứ vụ Phêrô (24.4.2005): AAS 97 (2005), 708.

[2] Điều này luôn giả định một danh tiếng về sự thánh thiện và việc thực hành các nhân đức Kitô giáo cách anh hùng, ít nhất trong mức độ thông thường: x. Motu Proprio Maiorem Hac Dilectionem (11.7. 2017), Art. 2c: L’Osservatore Romano, 12.7.2017, tr. 8.

[3] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Lumen Gentium, 9.

[4] x. JOSEPH MALEGUE, Pierres noires. Les classes moyennes du Salut, Paris, 1958.

[5] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Lumen Gentium, 12.

[6] Verborgenes Leben und Epiphanie: GW XI, 145.

[7] GIOAN PHAOLÔ II, Novo Millennio Ineunte (6.01.2001), 56: AAS 93 (2001), 307.

[8] Tertio Millennio Adveniente (10.11.1994), 37: AAS 87 (1995), 29.

[9] Bài giảng Lễ tưởng niệm các Chứng nhân Đức tin Thế kỷ 20 (7.5. 2000), 5: AAS 92 (2000), 680-681.

[10] Lumen Gentium, 11.

[11] x. HANS URS VON BALTHASAR, “Theology and Holiness”, trong Communio 14/4 (1987), 345.

[12] Khúc Linh Ca, Bản B, Lời tựa, 2.

[13] x. ibid., 14-15, 2.

[14] x. Giáo lý, Tiếp kiến chung, ngày 19.11.2014: Insegnamenti II/2 (2014), 555.

[15] PHANXICÔ SALÊSIÔ, Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa, VIII, 11.

[16] Năm chiếc bánh và hai con cá, Pauline Books and Media, 2003, tr. 9, 13.

[17] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NEW ZEALAND, Tình yêu chữa lành, 01.01.1988.

[18] Linh thao, 102-312.

[19] Giáo lý Giáo hội Công giáo, 515.

[20] Ibid., 516.

[21] Ibid., 517.

[22] Ibid., 518.

[23] Ibid., 521.

[24] BIỂN ĐỨC XVI, Giáo lý, Tiếp kiến chung ngày 13.4.2011: Insegnamenti VII (2011), 451.

[25] Ibid., 450.

[26] x. HANS URS VON BALTHASAR, “Thần học và sự Thánh thiện”, trong Communio 14/4 (1987), 341-350.

[27] XAVIER ZUBIRI, Naturaleza, historia, Dios, Madrid, 19933, 427.

[28] CARLO M. MARTINI, Những lời tuyên xưng của Phêrô, Cinisello Balsamo, 2017, 69.

[29] Chúng ta cần phân biệt giữa loại giải trí hời hợt này và một nền văn hóa tiêu khiển lành mạnh, giúp ta mở ra với người khác và với chính thực tại trong một tinh thần cởi mở và chiêm niệm.

[30] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giảng lễ Tuyên thánh (01.01.2000), 5: AAS 92 (2000), 852.

[31] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VÙNG TÂY PHI, Sứ điệp Bế mạc Hội nghị Toàn thể Lần thứ hai, 29.02.2016, 2.

[32] Người phụ nữ nghèo, Paris, II, 27.

[33] x. THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Thư Placuit Deo về Một số khía cạnh của sự Cứu độ Kitô giáo (22.02.2018), 4, trong L’Osservatore Romano, 2.3.2018, tr. 4-5: “Cả chủ nghĩa cá nhân theo tân phái pêlagiô lẫn sự xem thường thân xác của tân phái ngộ đạo đều làm méo mó sự tuyên xứng đức tin vào Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ phổ quát và duy nhất”. Tài liệu này cung cấp những nền tảng giáo thuyết để hiểu sự cứu độ Kitô giáo trong tham chiếu đến các khuynh hướng tân phái ngộ đạo và tân phái pêlagiô thời nay.

[34] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 94: AAS 105 (2013), 1060.

[35] Ibid.: AAS 105 (2013), 1059.

[36] Bài giảng Thánh Lễ tại Casa Santa Marta, 11.11.2016: L’Osservatore Romano, 12.11. 2016, p. 8.

[37] Như Thánh Bônaventura dạy, “chúng ta phải ngưng mọi hoạt động của trí óc và phải biến đổi cái đỉnh điểm của các tình cảm, hướng chúng tới Thiên Chúa mà thôi… vì tự nhiên không thể đạt được gì và nỗ lực cá nhân thì rất bé nhỏ, nên cần phải gán ít tầm quan trọng cho việc điều tra nghiên cứu và nhiều tầm quan trọng cho việc xoa dịu, cũng vậy, lời nói ít quan trọng hơn niềm vui bên trong, ăn nói và viết lách không quan trọng mấy, mà tất cả tầm quan trọng nằm ở ân ban của Chúa, là Thánh Thần, các thụ tạo không quan trọng mấy, mà tất cả tầm quan trọng nằm ở Đấng Sáng Tạo, là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”: BÔNAVENTURA, Itinerarium Mentis in Deum, VII, 4-5.

[38] x. Thư gửi Hiệu Trưởng Đại học Công giáo Argentina dịp kỷ niệm Bách chu niên Thành lập Phân khoa Thần học (3.3.2015): L’Osservatore Romano, 9-10.3.2015, tr. 6.

[39] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 40: AAS 105 (2013), 1037.

[40] Sứ điệp Truyền hình cho các tham dự viên của Hội nghị Ủy Ban Thần học Quốc tế tổ chức tại Đại học Công giáo Argentina (1-3.9.2015): AAS 107 (2015), 980.

[41] Vita Consecrata (25.3.1996), 38: AAS 88 (1996), 412.

[42] Thư gửi Hiệu Trưởng Đại học Công giáo Argentina dịp kỷ niệm Bách chu niên Thành lập Phân khoa Thần học (3.3.2015): L’Osservatore Romano, 9-10.3.2015, tr. 6.

[43] Thư gửi Anthony, 2: FF 251.

[44] De septem donis, 9, 15.

[45] Trong IV Sent. 37, 1, 3, ad 6.

[46] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 94: AAS 105 (2013), 1059.

[47] x. Bônaventura, De sex alis Seraphim, 3, 8: “Non omnes omnia possunt”. Cụm từ này phải được hiểu trong ánh sáng của Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1735.

[48] x.. TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae II-II, q. 109, a. 9, ad 1: “Nhưng như chúng ta đã nói, ở đây ân sủng không hoàn hảo mức nào đó, trong chừng mực nó không chữa lành hoàn toàn người ta”.

[49] x. De natura et gratia, 43, 50: PL 44, 271.

[50] Tự thú, X, 29, 40: PL 32, 796.

[51] x. Evangelii Gaudium (24.11.2013), 44: AAS 105 (2013), 1038.

[52] Trong việc hiểu đức tin Kitô giáo, ân sủng đi trước, đồng hành và đi theo tất cả các hành động của chúng ta (x. CÔNG ĐỒNG TRENTÔ, Khóa VI, Sắc lệnh về Công chính hóa, ch. 5: DH 1525).

[53] x. trong Ep. ad Romanos, 9, 11: PG 60, 470.

[54] Homilia de Humilitate: PG 31, 530.

[55] Canon 4: DH 374.

[56] Khóa VI, Sắc lệnh về Công chính hóa, ch. 8: DH 1532.

[57] No. 1998.

[58] Ibid., 2007.

[59] Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I-II, q. 114, a. 5.

[60] TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, “Kinh Dâng Hiến cho Tình yêu Thương Xót” (Cầu nguyện, 6).

[61] Lucio Gera, Sobre el misterio del pobre, trong P. GRELOT-L. GERA-A. DUMAS, El Pobre, Buenos Aires, 1962, 103.

[62] Nói tóm, đây là giáo thuyết Công giáo về “công trạng” theo sau ơn công chính hóa: nó liên hệ tới sự cộng tác của người được công chính hóa để lớn lên trong đời sống ân sủng (x. Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 2010). Nhưng sự cộng tác này không hề làm cho sự công chính hóa hay tình trạng thân hữu với Thiên Chúa trở thành đối tượng của công trạng con người.

[63] x. Evangelii Gaudium (24.11. 2013), 95: AAS 105 (2013), 1060.

[64] Summa Theologiae I-II, q. 107, art. 4.

[65] PHANXICÔ, Bài giảng lễ Năm Thánh cho những người bị loại trừ trong xã hội (13.11.2016): L’Osservatore Romano, 14-15.11.2016, tr. 8.

[66] x. Bài giảng Thánh Lễ tại Casa Santa Marta, 9.6.2014: L’Osservatore Romano, 10.6.2014, tr. 8.

[67] Thứ tự của các Mối Phúc thứ hai và thứ ba thì thay đổi theo những bản địch khác nhau.

[68] Linh thao, 23d.

[69] Thủ bản C, 12r.

[70] Từ thời các Giáo phụ, Giáo hội đã trân trọng ân ban nước mắt, như thấy trong lời cầu nguyện rất hay “Ad petendam compunctionem cordis”. Như sau: “Lạy Thiên Chúa toàn năng và đầy lòng thương xót, Chúa đã cho vọt ra từ tảng đá mạch nước sự sống làm thỏa cơn khát của dân Chúa. Xin ban cho chúng con những dòng lệ ăn năn chảy từ trái tim cứng cỏi của mình, để chúng con biết đau buồn về tội lỗi chúng con, và nhờ lòng thương xót của Chúa mà chúng con nhận được ơn tha thứ” (x. Missale Romanum, ed. typ. 1962, tr. [110]).

[71] Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 1789; x. 1970.

[72] Ibid., 1787.

[73] Nói xấu và vu khống là những hành động khủng bố: một quả bom được tung ra, nó phát nổ và kẻ tấn công ung dung bỏ đi một cách mãn nguyện. Điều này hoàn toàn khác với sự cao thượng của những người trực tiếp nói thẳng với người khác, một cách điềm tĩnh và tự nhiên, xuất phát từ lòng quan tâm chân thành đến thiện ích của người ấy.

[74] Có những lúc có thể cần phải nói về những khó khăn của một người anh chị em nào đó. Trong những trường hợp như thế, có thể xảy ra là người ta đưa ra một suy diễn thay vì là một sự kiện khách quan. Các cảm xúc có thể làm lung lạc và thay chỗ cho những dữ kiện thực tế, và cuối cùng là được truyền lan với sự thêm thắt những yếu tố chủ quan. Như vậy, cả các dữ kiện thực tế lẫn sự thật về người kia đều không được tôn trọng.

[75] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 218: AAS 105 (2013), 1110.

[76] Ibid., 239: 1116.

[77] Ibid., 227: 1112.

[78] Centesimus Annus (1.5.1991), 41c: AAS 81 (1993), 844-845.

[79] Novo Millennio Ineunte (06.01.2001), 49: AAS 93 (2001), 302.

[80] Ibid.

[81] Misericordiae Vultus (11.4.2015), 12: AAS 107 (2015), 407.

[82] Chúng ta có thể nhớ lại phản ứng của người Samaria tốt lành khi gặp người bị bọn cướp tấn công và bỏ dở sống dở chết (x. Lc 10,30-37).

[83] ỦY BAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO CANADA, Thư ngỏ gửi các thành viên Quốc hội, Công ích hay Loại trừ: Một chọn lựa cho người Canada (01.01.2001), 9.

[84] Hội nghị Toàn thể Lần thứ năm của các Giám mục Mỹ La tinh và vùng Caribê, vọng lại giáo huấn thường xuyên của Giáo hội, đã tuyên bố rằng con người “luôn luôn thánh thiêng, từ trong bào thai, ở mọi giai đoạn hiện hữu, cho tới cái chết tự nhiên, và sau khi chết”, và rằng phải bảo vệ sự sống “bắt đầu từ trong bào thai, ở mọi giai đoạn, cho tới cái chết tự nhiên” (Tài liệu Aparecida, 29.6.2007, 388; 464).

[85] Qui luật, 53, 1: PL 66, 749.

[86] x. ibid., 53, 7: PL 66, 750.

[87] Ibid., 53, 15: PL 66, 751.

[88] Misericordiae Vultus (11.4.2015), 9: AAS 107 (2015), 405.

[89] Ibid., 10, 406.

[90] Amoris Laetitia (19.3.2016), 311: AAS 108 (2016), 439.

[91] Evangelii Gaudium (24 November 2013), 197: AAS 105 (2013), 1103.

[92] x. Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4.

[93] Ibid., ad 1.

[94] Được trích dẫn (trong bản dịch tiếng Tây Ban Nha) trong: Cristo en los Pobres, Madrid, 1981, 37-38.

[95] Có một số hình thức gây áp lực, có vẻ tế nhị hay trân trọng và ngay cả có vẻ thiêng liêng nhưng lại gây tai hại lớn cho sự tự trọng của người khác.

[96] Precautions, 13.

[97] Ibid., 13.

[98] x. Nhật ký. Lòng thương xót của Chúa trong linh hồn tôi, Stockbridge, 2000, tr. 139 (300).

[99] TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae, I-II, q. 70, a. 3.

[100] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 6: AAS 105 (2013), 1221.

[101] Tôi khuyến khích dùng lời cầu nguyện được cho là của Thánh Thomas More: “Lạy Chúa, xin cho con một bộ tiêu hóa tốt, và cũng cho con có cái gì đó để tiêu hóa! Xin cho con một thân thể khoẻ mạnh, và khiếu hài hước lành mạnh cần thiết để giữ sức khoẻ ấy. Xin cho con một tâm hồn đơn sơ, biết trân trọng tất cả những gì tốt lành, và không dễ nao núng trước sự dữ, nhưng biết tìm cách trả mọi thứ về đúng chỗ của nó. Xin cho con một tâm hồn không biết chán, không cằn nhằn, không thở dài than vãn, không căng thẳng quá đáng do cái tôi cồng kềnh. Lạy Chúa, xin cho con khiếu hài hước tốt lành. Xin cho con ơn biết vui đùa, biết khám phá niềm vui trong cuộc sống, và biết chia sẻ niềm vui ấy cho tha nhân.”

[102] Amoris Laetitia (19.3.2016), 110: AAS 108 (2016), 354.

[103] Evangelii Nuntiandi (8.12.1975), 80: AAS 68 (1976), 73. Đáng ghi nhận rằng trong bản văn này Chân phước Phaolô VI nối kết chặt chẽ niềm vui với parrhesía. Trong khi lấy làm tiếc về tình trạng “thiếu niềm vui và hy vọng” xét như một cản trở cho việc loan báo Tin Mừng, ngài cổ võ “niềm vui loan báo Tin Mừng đầy năng lực an ủi”, được nối kết với “nhiệt tâm mà không ai và không gì có thể làm nguội lạnh”. Điều này khẳng định rằng thế giới không nhận Tin Mừng “từ những người buồn phiền và thất vọng”. Trong Năm Thánh 1975, Giáo hoàng Phaolô VI đã dành Tông huấn Gaudete in Domino để nói về niềm vui (9.5.1975): AAS 67 (1975), 289-322.

[104] Precautions, 15.

[105] GIOAN PHAOLÔ II, Vita Consecrata (25.3.1996), 42: AAS 88 (1996), 416.

[106] Tự thú, IX, 10, 23-25: PL 32, 773-775.

[107] Tôi đặc biệt nghĩ đến ba từ chủ chốt: “xin làm ơn”, “cảm ơn”, và “xin lỗi”. “Những lời thích hợp, được nói đúng lúc, sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu hằng ngày”: Amoris Laetitia (19.3.2016), 133: AAS 108 (2016), 363.

[108] TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, Thủ bản C, 29 v-30r.

[109] Các mức độ trọn lành, 2.

[110] ID., Những lời khuyên cho một tu sĩ về cách đạt tới trọn lành, 9.

[111] Tự thuật, 8, 5.

[112] GIOAN PHAOLÔ II, Orientale Lumen (2.5.1995), 16: AAS 87 (1995), 762.

[113] Gặp gỡ các tham dự viên Đại hội Giáo hội Italia Lần thứ năm, Florence, (10.11.2015): AAS 107 (2015), 1284.

[114] x. BÊNAĐÔ CLAIRVAUX, Sermones in Canticum Canticorum, 61, 3-5: PL 183:1071-1073.

[115] Con đường của một khách hành hương, New York, 1965, tr. 17, 105-106.

[116] x. Linh thao, 230-237.

[117] Thư gửi Henry de Castries, 14.8.1901.

[118] HỘI NGHỊ TOÀN THỂ LẦN THỨ NĂM CỦA CÁC GIÁM MỤC MỸ LA TINH VÀ VÙNG CARIBÊ, Tài liệu Aparecida (29.6.2007), 259.

[119] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO ẤN ĐỘ, Tuyên bố chung kết Hội nghị Toàn thể Lần thứ 21, 18.02.2009, 3.2.

[120] x. Bài giảng Thánh Lễ tại Casa Santa Marta, 11.10.2013: L’Osservatore Romano, 12.10.2013, tr. 2.

[121] x. PHAOLÔ VI, Giáo lý, Tiếp kiến chung ngày15.11.1972: Insegnamenti X (1972), tr. 1168-1170: “Một trong những nhu cầu lớn nhất của chúng ta là chống lại sự dữ mà chúng ta gọi là ma quỉ… Sự dữ không đơn thuần là một sự khiếm khuyết, nó là một tác động hữu hiệu, một hữu thể tinh thần sống động, đã hư hỏng và làm cho người ta hư hỏng. Nó là một thực tại khủng khiếp, bí ẩn và ghê sợ. Người ta không còn ở trong khuôn khổ giáo huấn của Thánh Kinh và của Giáo hội nếu họ phủ nhận sự hiện hữu của nó, hay nếu họ xem nó như một nguyên lý độc lập, không có nguồn gốc nơi Thiên Chúa như mọi thụ tạo khác, hoặc giải thích nó như một thực tại giả, một sự nhân cách hóa có tính tưởng tượng và niệm tưởng các nguyên nhân bí ẩn của những điều không may của chúng ta”.

[122] JOSÉ GABRIEL DEL ROSARIO BROCHERO, “Plática de las banderas”, trong CONFERENCIA EPISCOPAL ARGENTINA, El Cura Brochero. Cartas y sermones, Buenos Aires, 1999, 71.

[123] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 85: AAS 105 (2013), 1056.

[124] Mộ của Thánh Inhaxiô Loyola mang dòng chữ đầy cảm kích này: Non coerceri a maximo, conteneri tamen a minimo divinum est (“Những gì thực sự thuộc về Thiên Chúa thì không bị giới hạn bởi cái lớn nhất, nhưng được chứa đựng trong những cái nhỏ nhất”).

[125] Collationes in Hexaemeron, 1, 30.