$('.body .wrap-content .nhomtintuc').each(function() { $(this).find('header').insertBefore($(this).find('.img')).addClass('row p-2'); }); $(".body .wrap-content .nhomtintuc .card").removeClass("flex-sm-row"); $(".trangchu .wrap-content .ct13960 .tinchinh header").insertBefore('.trangchu .wrap-content .ct13960 .tinchinh .tomtat'); $('.desktopversion header .navbar').removeClass("bg-success text-light").addClass("bg-light text-dark"); $('.desktopversion header .navbar .nav-pr').removeClass("text-light").addClass("text-dark");
»
Đào tạo
»
»
Thần học

Tông Huấn HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ - Chương IV: Những dấu hiệu của sự thánh thiện trong thế giới ngày nay

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 652 | Cật nhập lần cuối: 4/25/2018 3:56:13 PM | RSS

TÔNG HUẤN HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ (GAUDETE ET EXSULTATE)

(tiếp theo)

– Lm Lê Công Đức, PSS., dịch –

CHƯƠNG IV

NHỮNG DẤU HIỆU CỦA SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY

  1. Trong cái khung thánh thiện mà Các Mối Phúc và trình thuật Matthêu 25,31-46 cung ứng, tôi muốn đề cập vài dấu hiệu hay thái độ tâm linh mà thiển nghĩ là cần thiết nếu chúng ta muốn hiểu lối sống mà Chúa mời gọi mình. Tôi sẽ không dừng lại để giải thích những phương tiện thánh hóa mà chúng ta vốn biết: những phương pháp cầu nguyện khác nhau, các bí tích Thánh Thể và Hòa Giải giá trị khôn lường, việc dâng những hy sinh riêng, những hình thức khác nhau của lòng mộ đạo, việc linh hướng, và nhiều điều khác. Ở đây tôi chỉ đề cập một số khía cạnh của lời mời gọi nên thánh mà tôi hy vọng được nhìn nhận là có ý nghĩa đặc biệt.
  2. Các dấu hiệu mà tôi nhấn mạnh không phải là tổng hợp một mẫu thức thánh thiện, nhưng chúng là năm cách diễn tả hùng hồn về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, mà tôi cho là có tầm quan trọng cách riêng trong bối cảnh một số nguy hiểm và những giới hạn của nền văn hóa hôm nay. Ta thấy trong nền văn hóa này một cảm thức hoang mang, đôi khi bạo lực, gây phân tán và suy nhược; tính chất tiêu cực và bi lụy; tính tự mãn sinh ra từ chủ nghĩa tiêu thụ; xu hướng cá nhân chủ nghĩa; và tất cả những hình thức linh đạo thay thế chẳng liên quan gì tới Thiên Chúa và đang chi phối khung cảnh tôn giáo hiện nay.

KIÊN TRÌ, NHẪN NẠI VÀ HIỀN HÒA

  1. Dấu hiệu lớn thứ nhất là đặt nền vững chắc nơi Thiên Chúa là Đấng yêu thương và nâng đỡ chúng ta. Nguồn sức mạnh nội tâm này giúp chúng ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc sống, đồng thời đứng vững trước sự thù địch, sự phản bội và những nhược điểm nơi người khác. “Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai có thể chống lại chúng ta?” (Rm 8,31): đây là nguồn của sự bình an được thấy nơi các thánh. Trong thế giới bon chen, náo động và hối hả này của chúng ta, sức mạnh nội tâm ấy giúp ta có thể làm chứng cho sự thánh thiện xuyên qua sự nhẫn nại và kiên tâm làm việc thiện. Đó là một dấu hiệu của sự trung tín phát xuất từ tình yêu, vì những ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa (pístis) thì cũng có thể trung thành với người khác (pistós). Họ không bỏ rơi người khác khi khốn khó; họ đồng hành với anh chị em mình khi lo âu và túng quẫn, cho dẫu điều này có thể không đem lại sự khuây khỏa ngay lập tức.
  2. Thánh Phaolô dạy các tín hữu Rôma không được lấy ác báo ác (x. Rm 12,17), không được tìm cách trả thù (c. 19), và không được để cho sự dữ thao túng mình, nhưng trái lại phải “vượt thắng sự dữ bằng sự thiện” (c. 21). Thái độ này không phải là một dấu hiệu của yếu nhược nhưng là của sức mạnh đích thực, vì chính Thiên Chúa “chậm giận nhưng vô cùng mạnh mẽ” (Nk 1,3). Lời Chúa dạy chúng ta “xua đuổi mọi chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, la lối thóa mạ, và mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31).
  3. Chúng ta cần nhận ra và chiến đấu chống lại những khuynh hướng hung hăng và ích kỷ của mình, và không cho phép chúng mọc rễ. “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội; chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Khi cảm thấy bức xúc, chúng ta luôn luôn có thể bám vào chiếc neo cầu nguyện, và ta sẽ ở trong tay Thiên Chúa và nguồn của sự bình an. “Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ lòng trí anh em…” (Pl 4,6-7).
  4. Các Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới ngôn ngữ bạo lực trên mạng internet và những diễn đàn khác nhau của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trong truyền thông Công giáo, có thể người ta cũng bỏ qua các giới hạn, việc bôi nhọ và vu khống có thể trở thành phổ biến, người ta có thể vứt bỏ mọi tiêu chuẩn đạo đức và sự tôn trọng thanh danh của người khác. Kết quả là một sự phân đôi nguy hiểm, vì có thể những gì người ta nói ở đó không được chấp nhận chỗ công khai, và người ta tìm trả đũa bằng cách đả kích người khác. Ở đây chúng ta thấy cách mà những miệng lưỡi không được kiểm soát, được ma quỉ châm ngòi, sẽ đốt cháy mọi sự (x. Gc 3,6).
  5. Sức mạnh nội tâm, là công trình của ân sủng, sẽ giữ chúng ta không bị cuốn đi bởi bạo lực vốn quá lan tràn trong đời sống hôm nay, vì ân sủng dập tắt thói kiêu hãnh và giúp người ta có thể hiền lành trong lòng. Các thánh không phung phí năng lực vào việc phàn nàn những điểm yếu của người khác; các ngài có thể giữ gìn miệng lưỡi trước những sai lỗi của anh chị em mình, và các ngài tránh thứ ngôn ngữ bạo lực chà đạp và ngược đãi người khác. Các thánh không đối xử nghiệt ngã với người khác; các ngài nhìn thấy người khác tốt hơn mình (x. Pl 2,3).
  6. Thật không tốt việc chúng ta nhìn người khác một cách khinh mạn như những quan tòa khắc nghiệt, việc ta khống chế người khác và luôn cố tìm cách dạy bảo họ. Điều này tự nó cũng là một dạng tinh vi của bạo lực. [95] Thánh Gioan Thánh Giá đề ra một nẻo đường khác hẳn: “Bạn hãy luôn mong muốn được mọi người dạy bảo mình, hơn là ham dạy bảo ngay cả những người bé nhỏ nhất”. [96] Và ngài thêm lời khuyên về cách tránh xa ma quỉ: “Hãy vui mừng về điều tốt của người khác như thể là của chính bạn, hãy mong ước người khác được ưu tiên hơn bạn trong mọi sự; và bạn hãy mong muốn như vậy với cả tấm lòng. Như thế bạn sẽ vượt thắng sự dữ bằng sự tốt lành, bạn xua đuổi ma quỉ, và có được một con tim đầy niềm vui. Hãy cố gắng thực hành điều này cách riêng đối với những người mà bạn ít ưa thích nhất. Hãy nhớ rằng nếu bạn không tự rèn luyện theo cách này, bạn sẽ không đạt được đức ái thực sự hay đạt được bất cứ sự tiến bộ nào trong đức ái”. [97]
  7. Lòng khiêm nhường cũng có thể bắt rễ trong trái tim xuyên qua những sự hạ mình. Nếu không hạ mình, sẽ không có khiêm nhường hay thánh thiện. Nếu bạn không thể chịu sỉ nhục và chấp nhận hạ mình, thì bạn không khiêm nhường và không ở trên nẻo đường thánh thiện. Sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho Giáo hội đến từ sự tự hạ của Chúa Con. Người là con đường. Việc hạ mình làm cho bạn giống Chúa Giêsu; nó là khía cạnh thiết yếu của việc bắt chước Đức Kitô. Vì “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho những ai muốn dõi bước theo Người” (1Pr 2,21). Về phần Người, Đức Kitô cho thấy sự khiêm nhường của Chúa Cha, Đấng hạ cố để đi trong hành trình với dân Ngài, chịu đựng những sự bất trung và những phàn nàn kêu ca của họ (x. Xh 34,6-9; Kn 11,23 – 12,2; Lc 6,36). Vì lý do này mà các Tông đồ, sau khi bị sỉ nhục, đã vui mừng hân hoan “vì thấy mình được xứng đáng chịu nhục mạ vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).
  8. Ở đây tôi không đang duy chỉ nói đến những trường hợp tuẫn đạo, mà cả về những sự hạ mình hằng ngày của những người giữ thinh lặng để cứu vãn gia đình mình, những người mau mắn khen ngợi người khác hơn là khoác lác về chính mình, hay những người chọn những công việc hèn mọn nhất, và đôi khi ngay cả chọn chịu sự bất công để dâng cho Chúa. “Nếu làm việc lành và vì đó mà phải khổ, thì anh em được Chúa ưng nhận” (1Pr 2,20). Điều này không có nghĩa là đi loanh quanh với đôi mắt cứ nhìn xuống đất, chẳng nói chẳng rằng, và tránh gặp gỡ người khác. Có những lúc, chính vì người ta tự do khỏi tính ích kỷ mà họ có thể dám bày tỏ sự bất đồng một cách nhẹ nhàng, dám đòi hỏi công lý hay bênh vực kẻ yếu trước kẻ mạnh, ngay cả dù điều này có thể làm họ phải chịu búa rìu dư luận.
  9. Tôi không nói rằng sự hạ mình như thế thì thích thú, vì nếu vậy hóa ra là bệnh thống khoái, nhưng tôi chỉ muốn nói rằng đó là một cách để bắt chước Chúa Giêsu và để lớn lên trong mối kết hợp với Người. Trên bình diện thuần túy tự nhiên thì người ta không thể hiểu điều này, và thế gian chế nhạo bất cứ ý niệm nào như thế. Nhưng đây là một ân sủng đạt được trong cầu nguyện: “Lạy Chúa, khi con bị sỉ nhục, xin Chúa giúp con biết rằng đó là con đang bước theo chân Chúa”.
  10. Để hành động theo cách ấy, người ta cần có một trái tim được lấp đầy bình an của Đức Kitô, được giải phóng khỏi tính hung hăng do lòng tự cao tự phụ. Chính niềm bình an này, là hoa trái của ân sủng, giúp chúng ta có thể kiên vững trong niềm tin tưởng vào sự thiện, “dù tôi đi qua thung lũng tối tăm của sự chết” (Tv 23,4) hay “dù cả một đạo quân vây đánh” (Tv 27,3). Đứng vững trong Chúa là Đá Tảng, chúng ta có thể hát lên: “Thư thái bình an, vừa nằm con đã ngủ; vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4,9). Tắt một lời, Đức Kitô “là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14); Người đến để “dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79). Như Người đã nói với Thánh Faustina Kowalska: “Nhân loại sẽ không có hòa bình trừ phi người ta tin tưởng hướng về lòng thương xót của Ta”. [98] Vì thế, chúng ta đừng đâm đầu vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong thành công, trong lạc thú phù du, trong của cải, trong quyền lực trên người khác hay trong địa vị xã hội. Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho anh em sự bình an của Thầy; không phải như sự bình an mà thế gian ban tặng” (Ga 14,27).

NIỀM VUI VÀ KHIẾU HÀI HƯỚC

  1. Các thánh không rụt rè, rầu rĩ, chua chát hay u uất, cũng không mang một vẻ mặt thê thảm, các ngài rất vui tươi và đầy khiếu hài hước lành mạnh. Mặc dù rất thực tế, các ngài vẫn phản chiếu một tinh thần tích cực và hy vọng. Đời sống Kitô hữu thì “đầy niềm vui trong Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “hoa quả thiết yếu của đức ái là niềm vui; vì ai yêu thương thì vui mừng được kết hợp với người mình yêu… đức ái đem lại niềm vui”. [99] Được nhận lãnh món quà tuyệt vời là lời Thiên Chúa, chúng ta nưng niu nó “giữa bao nỗi gian truân, với niềm vui mà Thánh Thần ban tặng” (1Tx 1,6). Nếu chúng ta để cho Chúa lôi kéo ta ra khỏi vỏ ốc của mình và thay đổi đời sống mình, thì chúng ta có thể đáp lời Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa; tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên!” (Pl 4,4).
  2. Các ngôn sứ đã loan báo về thời của Chúa Giêsu, là thời mà chúng ta đang sống đây, như một mạc khải của niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!” (Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên thật mạnh mẽ!” (Is 40,9). “Núi non hãy bật tiếng hò reo, vì Đức Chúa ủi an dân Ngài đã chọn, và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is 49,13). “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỉ, Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Ngài là Đấng Toàn Thắng” (Dcr 9,9). Chúng ta cũng không quên huấn dụ của Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì của anh em!” (8,10).
  3. Đức Maria, nhận ra tính mới mẻ mà Đức Giêsu mang đến, đã reo lên: “Thần trí tôi hoan hỉ” (Lc 1,47), và chính Đức Giêsu đã “hoan hỉ trong Thánh Thần” (Lc 10,21). Khi Người đi qua, “toàn thể dân chúng vui mừng” (Lc 13,17). Sau khi Chúa sống lại, bất cứ nơi đâu các môn đệ đi tới đều có “đầy niềm vui” (Cv 8,8). Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta: “Anh em sẽ ưu sầu, nhưng nỗi ưu sầu của anh em sẽ biến thành niềm vui… Thầy sẽ đến với anh em và lòng anh em sẽ vui mừng, và không ai có thể tước mất niềm vui của anh em” (Ga 16,20.22). “Thầy nói với anh em những điều này, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 15,11).
  4. Những thời khắc khó khăn có thể xảy đến, khi mà thập giá xuất hiện, nhưng không gì có thể phá hủy niềm vui siêu nhiên vốn “thích nghi và thay đổi, nhưng luôn luôn bền bĩ, ngay cả như một tia sáng phát xuất từ sự xác tín trong lòng chúng ta rằng, sau tất cả, chúng ta được yêu thương vô hạn”. [100] Niềm vui ấy mang lại sự an toàn sâu xa, niềm hy vọng vững chắc, và một niềm vui thỏa thiêng liêng mà thế gian không thể hiểu hay quí trọng.
  5. Niềm vui của Kitô hữu thường đi kèm với một cảm thức hài hước. Chẳng hạn, chúng ta thấy điều này rõ ràng nơi các Thánh Thomas More, Vincent de Paul và Philip Neri. Còn hài hước xấu thì không phải là dấu hiệu của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn” (Gv 11,10). Chúng ta nhận dồi dào mọi sự từ Chúa “để hưởng dùng” (1Tm 6,17), đến nỗi sự buồn phiền có thể là một dấu hiệu của thái độ vô ơn. Chúng ta có thể quá bận tâm với chính mình đến mức không thể nhận ra những quà tặng của Thiên Chúa. [101]
  6. Với tình yêu của người cha, Thiên Chúa bảo chúng ta: “Con ơi, hãy làm cho đời con tốt đẹp… Đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn chúng ta có thái độ tích cực, biết ơn và thoải mái: “Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng… Thiên Chúa dựng nên con người vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co” (Gv 7,14.29). Dù gặp trường hợp nào, chúng ta cũng giữ thái độ tích cực và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học biết vui lòng với điều tôi có” (Pl 4,11). Thánh Phanxicô Assisi đã sống tinh thần này; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì khô, hay hớn hở ngợi khen Thiên Chúa chỉ vì một thoáng gió mát mơn trớn qua khuôn mặt mình.
  7. Đây không phải là niềm vui được quảng bá nơi nền văn hóa tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa ngày nay. Chủ nghĩa tiêu thụ chỉ làm phù nề trái tim. Nó có thể trao lạc thú chóng qua khi này khi khác, nhưng đó không phải là niềm vui. Ở đây tôi đang nói về một niềm vui được người ta sống trong hiệp thông, nó chia sẻ và được chia sẻ, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35) và “Thiên Chúa yêu quí người biết trao ban một cách vui tươi” (2Cr 9,7). Tình huynh đệ sẽ gia tăng niềm vui nơi chúng ta, vì nó có thể làm cho ta biết vui mừng về điều tốt lành của người khác: “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh” (2Cr 13,9). Mặt khác, khi chúng ta chỉ “tập trung chú ý vào các nhu cầu của mình, thì đó là chúng ta đang tự phạt mình phải chịu một cuộc sống không có niềm vui”. [102]

DŨNG CẢM VÀ SAY MÊ

  1. Thánh thiện cũng là parrhesía: đó là lòng dũng cảm, một thôi thúc loan báo Tin Mừng và để lại dấu ấn trong thế giới này. Nhằm giúp chúng ta làm điều này, chính Chúa Giêsu đến và bảo chúng ta một lần nữa, cách trầm tĩnh nhưng mạnh mẽ rằng: “Đừng sợ” (Mc 6,50). “Thầy ở cùng anh em mọi ngày, cho đến tận thế” (Mt 28,20). Những lời này thúc giục ta đi ra và phục vụ với cùng lòng can đảm mà Chúa Thánh Thần đã khơi lên nơi các Tông đồ, thúc đẩy các ngài loan báo Chúa Giêsu Kitô. Lòng dũng cảm, sự nhiệt tâm, sự tự do lên tiếng, niềm hăng say tông đồ, tất cả những điều này được bao gồm trong từ parrhesía. Thánh Kinh cũng dùng từ này để diễn tả sự tự do của một đời sống mở ra cho Thiên Chúa và cho tha nhân (x. Cv 4,29; 9,18; 28,31; 2Cr 3,12; Ep 3,12; Dt 3,6; 10,19).
  2. Chân Phước Phaolô VI, khi đề cập đến những trở ngại đối với việc loan báo Tin Mừng, đã nói về tình trạng thiếu lòng hăng say (parrhesía) vốn “nghiêm trọng hơn nhiều, vì nó đến từ bên trong”. [103] Biết bao lần chúng ta bị cám dỗ giữ thuyền sát bờ! Nhưng Chúa mời gọi chúng ta chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới (x. Lc 5,4). Người mời gọi chúng ta dâng hiến đời mình để phục vụ Người. Bám chặt Người, chúng ta được thúc đẩy đặt tất cả đặc sủng của mình để phục vụ tha nhân. Ước gì chúng ta luôn luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa thôi thúc (2Cr 5,14) và nói như Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16).
  3. Bạn hãy nhìn Chúa Giêsu. Lòng trắc ẩn sâu xa của Người vươn ra chạm tới những người khác. Người không lưỡng lự, nhút nhát hay ngượng ngùng, như điều thường thấy nơi chúng ta. Chúa Giêsu thì hoàn toàn ngược lại. Lòng trắc ẩn của Người làm cho Người chủ động đi ra rao giảng và sai những người khác nữa vào một sứ mạng chữa trị và giải phóng. Chúng ta hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình, nhưng cho phép Chúa Giêsu nắm lấy, và cũng sai cả chúng ta nữa vào sứ mạng. Chúng ta yếu, nhưng chúng ta nắm giữ một kho tàng có thể làm triển nở mình và làm cho những ai đón nhận nó được nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Lòng dũng cảm và sự can đảm của người tông đồ là một phần thiết yếu của sứ mạng.
  4. Parrhesía là một ấn tích của Chúa Thánh Thần; nó xác nhận tính chân thực của lời chúng ta rao giảng. Nó là một sự chắc chắn đầy hân hoan dẫn chúng ta tới vinh dự trong Tin Mừng mà chúng ta loan báo. Nó là một niềm tin tưởng không lay chuyển đặt nơi vị Chứng Nhân trung thành, là Đấng trao cho chúng ta sự chắc chắn rằng không gì có thể “tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8,39).
  5. Chúng ta cần sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, để không bị tê liệt do sợ hãi hay do thận trọng quá mức, để chúng ta không trở thành quen sống trong phạm vi an toàn. Hãy nhớ rằng những không gian khép kín thì ẩm mốc và không tốt cho sức khỏe. Khi các Tông đồ bị cám dỗ cho phép những nguy hiểm và đe dọa làm cho mình què quặt, các ngài đã cùng nhau cầu nguyện và kêu xin parrhesía: “Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv 4,29). Kết quả là, “khi họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,31).
  6. Giống như ngôn sứ Giôna, chúng ta thường xuyên bị cám dỗ trốn tránh ở một chỗ trú an toàn. Chỗ trú ấy có thể mang nhiều tên: cá nhân chủ nghĩa, duy thiêng liêng, sống trong một thế giới nhỏ, tình trạng nghiện, chủ trương không khoan nhượng, bác bỏ những ý tưởng và những phương pháp mới, giáo điều, hoài cổ, bi quan, nấp đàng sau các luật lệ và qui định. Chúng ta có thể đề kháng việc rời bỏ một cách thế làm việc quen thuộc và dễ dãi. Nhưng những thách đố liên quan thì có thể giống như cơn bão ấy, con cá voi ấy, con sâu làm héo dây bầu ấy, hay như cơn gió và mặt trời thiêu đốt cái đầu trần của Giôna. Đối với chúng ta, cũng như đối với Giôna, chúng có thể giúp đưa ta trở về với vị Thiên Chúa ân cần trìu mến, Đấng mời gọi chúng ta không ngừng bắt đầu lại hành trình của mình.
  7. Thiên Chúa là sự mới mẻ vĩnh cửu. Ngài không ngừng thúc đẩy chúng ta bắt đầu lại, vượt quá những gì quen thuộc, đi tới những vùng ngoại biên và xa hơn nữa. Ngài đưa chúng ta tới những chỗ mà con người bị thương tích nhiều nhất, những chỗ mà những con người nam nữ, ẩn dưới vẻ của một nề nếp ổn định, vẫn tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn về ý nghĩa đời sống. Thiên Chúa không sợ! Nơi Ngài không có sự sợ hãi! Ngài luôn lớn hơn các kế hoạch và các sắp xếp của chúng ta. Không sợ các ngoại biên, chính Ngài đã trở nên một ngoại biên (x. Pl 2,6-8; Ga 1,14). Vì thế nếu ta dám đi tới những vùng ngoại biên, ta sẽ gặp Ngài ở đó; thật vậy, Ngài đã ở sẵn đó. Chúa Giêsu đang ở sẵn đó, trong trái tim của các anh chị em chúng ta, trong xác thân bị thương tích của họ, trong những lo lắng và những muộn phiền sâu xa của họ. Người ở sẵn đó.
  8. Quả đúng là chúng ta cần mở cửa trái tim mình cho Chúa Giêsu, Đấng đang đứng và gõ cửa (x. Kh 3,20). Đôi khi tôi lại tự hỏi, có lẽ Chúa Giêsu đang ở bên trong chúng ta và Người gõ để được ta cho phép Người ra ngoài, thoát khỏi cái tình trạng qui ngã đã bốc mùi thiu thối của chúng ta. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu “đi qua các thành thị và làng mạc, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 8,1). Sau Phục sinh, khi các môn đệ ra đi mọi hướng, Chúa đã đồng hành với họ (x. Mc 16,20). Đó là điều xảy ra như kết quả của sự gặp gỡ đích thực.
  9. Tính tự mãn rất có sức lôi cuốn; nó bảo chúng ta rằng chẳng có ý nghĩa gì việc cố gắng thay đổi mọi sự, rằng chúng ta không thể làm gì được, bởi vì đây là cách làm xưa nay vẫn thế, và dù sao thì chúng ta vẫn luôn có thể sống còn! Do thói quen mà chúng ta không còn đứng lên đương đầu với sự dữ nữa. Chúng ta “cho phép mọi sự cứ như vậy”, hay cứ như những kẻ khác quyết định nó phải vậy. Nhưng chúng ta cần để cho Chúa đánh thức mình khỏi cơn mê, giải thoát ta khỏi sự ì ạch của mình. Chúng ta hãy suy nghĩ lại cách làm thông thường của mình; chúng ta hãy mở mắt và tai, và nhất là mở con tim ra, để không tự hài lòng về mọi sự như hiện trạng của chúng, nhưng để được khuấy động bởi lời sống động và hữu hiệu của Chúa Phục sinh.
  10. Chúng ta được thôi thúc để hành động theo gương của tất cả các linh mục, tu sĩ, giáo dân dấn thân cho việc rao giảng và phục vụ tha nhân với lòng trung thành lớn lao, họ thường phải liều mạng sống mình, và chắc chắn họ phải hy sinh sự dễ chịu trong đời sống. Chứng tá của họ nhắc chúng ta rằng Giáo hội cần không phải những quan chức bàn giấy cho bằng là những thừa sai đầy nhiệt huyết, hăng hái chia sẻ đời sống thực. Các thánh gây ngạc nhiên cho chúng ta, các ngài làm ta áy náy, vì bằng đời sống của mình, các ngài thúc bách chúng ta dứt bỏ một tình trạng xoàng xĩnh buồn tẻ và ảm đạm.
  11. Chúng ta hãy xin ơn Chúa để không ngần ngừ khi Chúa Thánh Thần mời gọi mình bước tới. Chúng ta hãy xin có được sự can đảm của các tông đồ để chia sẻ Tin Mừng với người khác, và ngừng việc biến đời sống Kitô giáo của mình thành một nhà bảo tàng những ký ức. Trong mọi hoàn cảnh, xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiêm ngắm lịch sử trong ánh sáng của Chúa Giêsu Phục sinh. Nhờ đó, Giáo hội sẽ không đứng im bất động, nhưng không ngừng tiếp đón những điều ngạc nhiên của Chúa.

TRONG CỘNG ĐOÀN

  1. Khi chúng ta sống xa cách người khác, thật khó để chống lại nhục dục, chống lại những cái bẫy, những cám dỗ của ma quỉ, và sự ích kỷ trong thế gian. Bị tấn công dồn dập bởi quá nhiều lực lôi kéo, chúng ta có thể trở nên quá cô lập, đánh mất cảm thức về thực tại và sự trong sáng bên trong, và dễ dàng đầu hàng.
  2. Lớn lên trong sự thánh thiện là một hành trình trong cộng đoàn, sát cánh với những người khác. Chúng ta thấy điều này nơi một số cộng đoàn thánh thiện. Lúc này lúc khác, Giáo hội đã tuyên thánh trọn cả những cộng đoàn đã sống Tin Mừng một cách anh hùng hay đã dâng hiến cho Thiên Chúa sự sống của tất cả các thành viên. Chẳng hạn, chúng ta có thể nghĩ tới bảy vị sáng lập thánh thiện của Dòng Tôi Tớ Đức Maria, bảy Chân phúc nữ tu thuộc đan viện đầu tiên của Dòng Thăm Viếng ở Madrid, các thánh tuẫn đạo Nhật Bản: Paul Miki và các bạn, các thánh tuẫn đạo Triều Tiên: Andrew Taegon và các bạn, hay các thánh tuẫn đạo Nam Mỹ: Roque González, Alonso Rodríguez và các bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại các chứng tá gần đây hơn của các đan sĩ Trappist ở Tibhirine, Algeria, là những người đã chuẩn bị trong tư cách một cộng đoàn để sẵn sàng tuẫn đạo. Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh thiện cũng thế, mỗi người phối ngẫu trở thành một phương tiện Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Việc sống hay làm việc cùng với những người khác chắc chắn là một con đường trưởng thành thiêng liêng. Thánh Gioan Thánh Giá nói với một trong các môn đệ ngài: “Bạn đang sống với những người khác để được uốn nắn và thử thách”. [104]
  3. Mỗi cộng đoàn được mời gọi kiến tạo “một không gian được Thiên Chúa chiếu sáng để kinh nghiệm sự hiện diện giấu ẩn của Chúa Phục sinh trong đó”. [105] Việc chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể với nhau đẩy mạnh tình huynh đệ và làm cho chúng ta trở thành một cộng đoàn thừa sai thánh thiện. Điều đó cũng đem lại những kinh nghiệm thần bí đích thực chia sẻ chung với nhau. Đó là trường hợp của các thánh Biển Đức và Scholastica. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến kinh nghiệm thiêng liêng tuyệt vời được chia sẻ bởi Thánh Augustinô và Thánh Monica. “Hôm ấy, gần tới ngày mẹ con rời khỏi đời này – ngày mà Chúa biết rõ, còn chúng con thì không – đã xảy ra một chuyện mà con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa: lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn bên cạnh… Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng suối từ trời cao đổ xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối ban sự sống bắt nguồn từ Chúa… Và khi chúng con nói về lẽ khôn ngoan ấy và đắm chìm trong đó, chúng con đã chạm được nó một mức nào đó bằng động lực của trái tim mình… sự sống vĩnh cửu có thể giống một khoảnh khắc khai trí như thế mà bây giờ chúng con luyến tiếc”. [106]
  4. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như thế không thường xảy ra, mà cũng không phải là điều quan trọng nhất. Đời sống chung, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn tu trì hay bất cứ cộng đoàn nào khác, được hình thành bởi những điều nhỏ nhặt thường ngày. Đó là trường hợp của cộng đoàn thánh được hình thành bởi Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, ở đó phản ảnh một cách mẫu mực vẻ đẹp của mối hiệp thông Chúa Ba Ngôi. Đó cũng là đời sống mà Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ và với dân chúng.
  5. Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ chú ý đến các chi tiết.

Chi tiết nhỏ như chuyện hết rượu tại một tiệc cưới.

Chi tiết nhỏ như chuyện lạc mất một con chiên.

Chi tiết nhỏ như việc nhận ra bà góa dâng cúng hai đồng tiền kẽm.

Chi tiết nhỏ như việc mang dầu dự phòng cho đèn, phòng trường hợp chàng rể đến trễ.

Chi tiết nhỏ như việc hỏi xem các môn đệ có bao nhiêu chiếc bánh.

Chi tiết nhỏ như việc nhóm một bếp lửa và nướng cá khi chờ các môn đệ lúc rạng sáng.

  1. Một cộng đoàn biết trân quí những chi tiết nhỏ của tình yêu, [107] trong đó các thành viên quan tâm đến nhau, tạo ra một môi trường cởi mở và có sức loan báo Tin Mừng, đó là một nơi mà Chúa Phục sinh hiện diện, thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Có những lúc mà nhờ một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta được ban cho – giữa các chi tiết nhỏ nhặt kia – những kinh nghiệm đầy an ủi của Thiên Chúa. “Một tối mùa đông, con đang làm việc bổn phận bé nhỏ của con như thường lệ… Thình lình, con nghe từ xa tiếng đàn du dương. Rồi con nhìn thấy một phòng khách sáng rực ánh đèn, trang hoàng rực rỡ, với nhiều quí nương trong trang phục quí phái đang trò chuyện và trao cho nhau những lời khen ngợi đủ kiểu, những trầm trồ tán tụng của trần thế. Rồi con quay lại nhìn người chị em đau ốm mà con đang săn sóc. Ở đây con không nghe thấy tiếng nhạc du dương, mà thay vào đó chỉ nghe những tiếng than thở bất chợt của chị ấy… Con không thể diễn tả thành lời điều mình cảm nghiệm trong linh hồn; điều con biết chắc đó là Chúa đã chiếu sáng nó với những tia sáng của sự thật vượt quá vẻ rực rỡ nhưng mờ mịt của những lễ hội thế gian mà con không thể tin là hạnh phúc của mình”. [108]
  2. Tương phản với chủ nghĩa cá nhân đẫm màu tiêu thụ đang lan tràn và có khuynh hướng cô lập chúng ta trong việc hăm hở tìm kiếm ích lợi cho mình tách rời khỏi người khác, nẻo đường thánh thiện chỉ có thể làm cho chúng ta ăn khớp hơn với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Xin cho tất cả nên một; như Cha ở trong con, và như con ở trong Cha” (Ga 17,21).

TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỈ

  1. Cuối cùng, dù dường như đã quá hiển nhiên, chúng ta cần nhớ rằng sự thánh thiện hệ tại ở sự mở ra thường xuyên với siêu việt, được diễn tả trong cầu nguyện và thờ phượng. Các thánh được nhận diện bởi một tinh thần cầu nguyện và một niềm khát khao hiệp thông với Thiên Chúa. Các ngài nhận thấy rằng một mối quan tâm duy chỉ dành cho thế giới này thì chật hẹp và ngột ngạt, và ở giữa các mối quan tâm và dấn thân của mình, các ngài khát khao Thiên Chúa, đắm chìm trong việc ca ngợi và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin vào sự thánh thiện mà không có cầu nguyện, dù đó là việc cầu nguyện không kéo dài hay gắn với những cảm xúc sâu đậm.
  2. Thánh Gioan Thánh Giá bảo chúng ta: “Hãy cố gắng ở lại thường xuyên trong sự hiện diện của Thiên Chúa – dù là hiện diện thực tế, hay tưởng tượng, hay kết hợp – trong mức độ mà các công việc của bạn cho phép”. [109] Cuối cùng, niềm khát khao Thiên Chúa nơi chúng ta chắc chắn sẽ được diễn tả trong đời sống hằng ngày: “Hãy cố gắng cầu nguyện liên lỉ, ngay khi tập thể dục cũng đừng bỏ cầu nguyện. Dù anh em ăn, uống, chuyện trò, hay làm bất cứ gì, hãy luôn luôn đến với Thiên Chúa và đặt trái tim mình nơi Ngài”. [110]
  3. Tuy nhiên, để được như vậy, cũng cần có một số khoảnh khắc chỉ dành cho Thiên Chúa thôi. Đối với Thánh Têrêsa Avila, cầu nguyện “không là gì khác ngoài một tương giao tình bạn, và việc chuyện trò riêng tư thường xuyên với Đấng mà chúng ta biết rằng Ngài yêu thương chúng ta”. [111] Tôi muốn nhấn mạnh rằng điều này đúng không chỉ cho một thiểu số được đặc ân, nhưng là cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta cần sự thinh lặng này, sự thinh lặng đầy tràn sự hiện diện của Đấng mình tôn thờ”. [112] Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là sự đáp trả của một trái tim mở ra cho việc gặp gỡ Thiên Chúa mặt đối mặt, trong đó tất cả đều an bình và tiếng nói thầm thì của Chúa có thể được nghe thấy giữa thinh lặng.
  4. Trong sự thinh lặng đó, nhờ ánh sáng của Thánh Thần, chúng ta có thể phân định những nẻo đường thánh thiện mà Chúa mời gọi mình. Nếu chẳng vậy, bất cứ quyết định nào của chúng ta cũng có thể chỉ là chuyện bề mặt giả tạo, trong đó thay vì thượng tôn Tin Mừng trong đời sống thì các quyết định ấy sẽ che lấp hay nhận chìm Tin Mừng. Đối với mỗi người môn đệ, thật thiết yếu phải dành thời giờ với Thầy, lắng nghe lời Thầy, và luôn luôn học nơi Thầy. Nếu chúng ta không lắng nghe, tất cả lời lẽ của chúng ta sẽ chẳng là gì ngoài những tiếng nói vô ích.
  5. Cần nhớ rằng “việc chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, sẽ phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nhân tính ấy đã bị tan vỡ bởi những lộn xộn của đời sống này, hay đã hư hỏng do tội lỗi. Chúng ta không được làm suy yếu sức mạnh của khuôn mặt Đức Kitô”. [113] Vì thế xin cho phép tôi đặt câu hỏi: Có chăng những khoảnh khắc bạn thinh lặng đặt mình trong sự hiện diện của Chúa, những khi mà bạn thanh thản dành thời giờ với Người, cho phép Người đăm chiêu nhìn bạn? Bạn có để cho ngọn lửa của Người cháy lên trong lòng mình không? Trừ phi bạn cho phép Người đốt nóng mình thêm nữa với tình yêu và sự dịu dàng của Người, bạn sẽ không thể bắt lửa được. Như vậy thì làm sao bạn có thể đốt nóng trái tim người khác bằng lời nói và chứng tá của bạn? Nếu khi chăm chú nhìn khuôn mặt của Đức Kitô bạn cảm thấy khó khăn việc để cho Người chữa lành và biến đổi mình, thì bạn hãy đi vào trong trái tim của Chúa, đi vào trong các vết thương của Người, vì đó là chỗ của lòng thương xót thần linh. [114]
  6. Tôi kêu gọi tất cả chúng ta đừng bao giờ xem sự thinh lặng cầu nguyện như một hình thức trốn tránh và quay lưng lại với thế giới xung quanh mình. Nhà hành hương người Nga nọ, là người cầu nguyện không ngừng, đã nói rằng việc cầu nguyện như thế không tách mình ra khỏi những gì đang xảy ra xung quanh. “Mọi người thật tốt với tôi; dường như mọi người đều yêu thương tôi… Tôi không chỉ cảm thấy [hạnh phúc và được an ủi] trong tâm hồn mình, mà tôi cảm nhận tất cả thế giới bên ngoài dường như cũng đầy ắp nét diễm lệ và niềm vui”. [115]
  7. Lịch sử cũng không biến mất. Vì cầu nguyện được nuôi dưỡng bởi ân ban của Thiên Chúa vốn hiện diện và hoạt động trong đời sống chúng ta, nên cầu nguyện cũng luôn luôn được đánh dấu bởi sự hồi tưởng. Ký ức về các công trình Chúa thực hiện là trung tâm của kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa đã muốn đi vào lịch sử, và vì thế việc cầu nguyện của chúng ta được đan kết với các ký ức. Chúng ta hồi tưởng không chỉ Lời mặc khải của Ngài, mà còn về đời sống của chúng ta, đời sống của những người khác, và tất cả những gì Chúa đã làm trong Giáo hội. Đây là ký ức hồng phúc mà Thánh Inhaxiô Loyola qui chiếu đến trong bài “Chiêm Niệm để được Tình Yêu” của ngài, [116] khi thánh nhân mời gọi chúng ta ý thức về tất cả những hồng ân mà chúng ta nhận được từ Chúa. Hãy nghĩ đến lịch sử cuộc đời bạn khi bạn cầu nguyện, và trong đó bạn sẽ gặp thấy rất nhiều lòng thương xót. Điều này cũng sẽ giúp bạn ý thức hơn rằng Chúa luôn nghĩ đến bạn; Người không bao giờ quên bạn. Vì thế thật là ý nghĩa việc xin Chúa soi sáng những chi tiết nhỏ nhất của đời bạn, vì Người thấy rõ tất cả.
  8. Lời cầu nguyện khẩn nài là một diễn tả của trái tim tin tưởng vào Thiên Chúa và nhìn nhận rằng tự mình chẳng làm được gì. Đời sống của những người trung thành với Thiên Chúa được đánh dấu bởi sự khẩn nài thường xuyên xuất phát từ tình yêu thấm đẫm đức tin và lòng tin tưởng vững vàng. Chúng ta đừng xem nhẹ lời cầu nguyện thỉnh cầu, vốn thường giúp chúng ta an tâm và có thể kiên trì hy vọng. Cầu nguyện chuyển cầu có một giá trị riêng, vì đó là một hành động của lòng tin tưởng vào Thiên Chúa và đồng thời là một diễn tả tình yêu đối với tha nhân. Có những người dựa trên một linh đạo phiến diện nào đó và nghĩ rằng cầu nguyện phải là việc chiêm ngắm Thiên Chúa cách thuần túy, thoát khỏi mọi chia trí, ví như việc nghĩ đến tên tuổi hay khuôn mặt của người ta cũng là điều cần tránh. Thế nhưng trong thực tế, việc cầu nguyện của chúng ta càng làm vui lòng Thiên Chúa và càng giúp ta lớn lên trong sự thánh thiện, nếu xuyên qua sự chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành giới răn hai mặt mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta. Lời cầu nguyện chuyển cầu là một diễn tả mối quan tâm huynh đệ đối với người khác, vì chúng ta đang ôm lấy đời sống của họ, những lo lắng sâu xa nhất, và những giấc mơ cao quí nhất của họ. Chúng ta có thể mượn lời Thánh Kinh để nói về những người chuyên chăm cầu nguyện chuyển cầu như sau: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân chúng” (2Mac 15,14).
  9. Nếu nhìn nhận Thiên Chúa hiện hữu, chúng ta không thể không tôn thờ Ngài, có những khi trong sự ngạc nhiên âm thầm, và ca ngợi Ngài trong khúc ca rộn rã. Như vậy chúng ta chia sẻ trong kinh nghiệm của Chân Phước Charles de Foucauld: “Vừa khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài”. [117] Trong đời sống của đoàn dân lữ hành của Chúa, có thể có nhiều thái độ thờ phượng tinh thuần rất giản dị, như khi “ánh mắt của người khách hành hương hướng về một hình ảnh diễn tả tình thương và sự gần gũi của Thiên Chúa. Yêu thương thì biết dừng lại, chiêm ngắm mầu nhiệm, và thưởng thức mầu nhiệm ấy trong thinh lặng”. [118]
  10. Việc đọc lời Chúa trong tâm tình cầu nguyện – lời “ngọt hơn mật” (Tv 119,103) nhưng cũng là “thanh gươm hai lưỡi” (Dt 4,12) – có thể giúp chúng ta dừng lại và lắng nghe tiếng nói của Tôn Sư. Nó trở thành một ngọn đèn soi chân ta bước và ánh sáng chỉ đường ta đi (x. Tv 119,105). Như các giám mục Ấn Độ lưu ý: “Lòng yêu mến lời Chúa không đơn thuần là một trong những việc mộ đạo, vốn đẹp đẽ nhưng tùy chọn. Nó đi vào trong chính trái tim và căn tính của đời sống Kitô hữu. Lời Chúa có năng lực biến đổi đời sống”. [119]
  11. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh Kinh dẫn chúng ta đến với cử hành Thánh Thể, ở đó lời ghi trong sách đạt được hiệu lực cao quí nhất của nó, vì đó chính là Lời sống động trong hiện tại. Trong Thánh Lễ, vị Thiên Chúa độc nhất và đích thực nhận được sự tôn thờ tuyệt hảo mà thế giới có thể dâng cho Ngài, vì chính Đức Kitô được hiến dâng. Khi rước Thánh Thể, chúng ta làm mới lại giao ước với Ngài và cho phép Ngài thực hiện công trình biến đồi đời sống mình cách trọn vẹn hơn.