$('.body .wrap-content .nhomtintuc').each(function() { $(this).find('header').insertBefore($(this).find('.img')).addClass('row p-2'); }); $(".body .wrap-content .nhomtintuc .card").removeClass("flex-sm-row"); $(".trangchu .wrap-content .ct13960 .tinchinh header").insertBefore('.trangchu .wrap-content .ct13960 .tinchinh .tomtat'); $('.desktopversion header .navbar').removeClass("bg-success text-light").addClass("bg-light text-dark"); $('.desktopversion header .navbar .nav-pr').removeClass("text-light").addClass("text-dark");
»
Thời sự
»
»
Giáo hội Hoàn Vũ

Đọc lại Thông điệp "Sự Sống con người"- Humanae Vitae sau 50 năm ( từ số 1-14)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 472 | Cật nhập lần cuối: 7/27/2018 9:14:34 PM | RSS

Thông Điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae)

của Đức Thánh Cha Phaolô VI

25 Tháng 7 Năm 1968

Thân gửi Chư Huynh đáng kính, các Vị Thượng Phụ,

các Vị Tổng Giám Mục, Giám Mục và các vị Giáo Quyền

tại những nơi giao hảo và hiệp thông với Tòa Thánh,

các Tu Sĩ, các Giáo Hữu thuộc thế giới Công Giáo

và toàn thể những Người Thiện Tâm Thiện Chí

Kính chào chư huynh khả kính và các con thân mến,

xin gửi đến tất cả phép lành Tòa thánh

Sự lưu truyền đời sống

1. Nhiệm vụ lưu truyền đời sống là một nhiệm vụ trọng đại của đôi phối ngẫu, một nhiệm vụ khiến họ trở nên những người tự động tham dự vào trách nhiệm tạo dựng của Đấng Tạo Hóa, một nhiệm vụ luôn luôn mang lại cho họ nhiều nguồn an ủi, vui sướng lớn lao, song đồng thời thỉnh thoảng cũng gây cho họ không biết bao nhiêu khó khăn, cực lòng.

Trong mọi thời đại, việc thi hành nhiệm vụ lưu truyền đời sống thường đặt các đôi phối ngẫu trước nhiều vấn đề thắc mắc, khó giải quyết; và đặc biệt những tiến hóa của xã hội hiện đại đã gây rất nhiều biến chuyển, và tạo ra nhiều vấn đề mới, Giáo hội không thể không lưu tâm đến những vấn đề này, vì đây là một lãnh vực có liên hệ mật thiết với đời sống và hạnh phúc con người.

I. Những Khía Cạnh Mới Của Vấn Đề Về Quyền Hạn Của Giáo Quyền

Những dữ kiện mới

2. Những biến chuyển mới xảy ra hết sức rõ ràng, quan trọng và thuộc nhiều lãnh vực. Biến chuyển đầu tiên là việc dân số trên thế giới gia tăng mau lẹ. Nhiều người tỏ ý lo ngại: với nhịp độ này, không mấy lúc nữa, các tài nguyên thực phẩm sẽ không đủ cung ứng cho nhu cầu của con người, vì nhịp độ sản xuất chậm hơn. Viễn tượng đó đã tạo ra một tâm trạng khắc khoải, khiến nhiều gia đình, nhiều dân tộc chậm tiến phải lo âu, và các nhà cầm quyền rất dễ ngã theo chủ trương làm mạnh để chặn đứng nguy cơ này. Ngoài ra, các điều kiện làm việc, tình trạng nhà ở, và các nhu cầu đòi hỏi mới của nhân loại trong lãnh vực kinh tế, giáo dục đã gây rất nhiều khó khăn trở ngại cho việc dưỡng dục con cái một cách đầy đủ, nếu chúng đông quá.

Biến chuyển thứ hai được phát hiện trong vai trò người đàn bà: giá trị cũng như vị trí của họ trong xã hội hiện đang được người ta thảo luận, cân nhắc, xét lại. Sự biến chuyển còn thấy ngay vấn đề tình yêu hôn nhân, trong ý nghĩa của các tác động hôn nhân xét theo khía cạnh của tình yêu.

Cuối cùng, biến chuyển quan trọng nhất hiện nay trên thế giới là việc con người đã tiến những bước khổng lồ trong địa hạt chinh phục và tổ chức lại các lực lượng thiên nhiên, và vì thế, họ cũng muốn áp dụng khả năng chinh phục ấy đối với chính bản thân (xét trong khía cạnh toàn bộ) của họ: thân xác, đời sống vật lý, đời sống xã hội và ngay cả các định luật vốn dùng làm tiêu chuẩn điều hành trong việc lưu truyền đời sống, họ cũng muốn sửa đổi thay thế.

3. Lẽ tất nhiên tình trạng trên đây đã phát sinh nhiều vấn đề mới. Người ta nghĩ rằng: Khi các điều kiện sinh hoạt đã thay đổi, khi ý niệm về các hành vi hôn nhân đã xoay chiều để tạo sự hòa hợp và trung thành giữa đôi vợ chồng, cố nhiên không thể không lưu tâm xét lại các định luật luân lý có liên hệ đến hôn nhân, nhất là khi người ta nhận thấy, muốn tuân giữ các định luật trên, nhiều khi phải hy sinh, phải có một chí can đảm phi thường.

Đem áp dụng nguyên tắc "toàn bộ" về vấn đề này, nhiều người tự hỏi: liệu có thể, với ý thức và mục đích hạn chế bớt việc sinh sản và điều hòa nó một cách khoa học, người ta có thể biến chế việc vô hiệu hóa năng lực sinh sản thành một hành vi hợp pháp và khôn ngoan không? Nói cách khác, liệu người ta có quyền chấp nhận quan điểm này: cứu cánh, mục đích của việc sinh sản không phải chỉ bao gồm mỗi hành vi, mà trái lại, bao gồm toàn thể đời sống hôn nhân không?

Người ta còn đi xa hơn nữa và tự hỏi rằng: với tinh thần trách nhiệm ngày một lớn của con người cận đại, liệu đã đến lúc nên cho phép họ căn cứ vào lý trí, ý muốn của mình để tự điều hòa lấy vấn đề sinh sản, hơn là cứ phó mặc cho các định luật sinh lý.

Quyền hạn của giáo quyền

4. Những vấn đề trên đây đòi hỏi Giáo hội phải suy nghĩ cân nhắc lại một cách kỹ càng các nguyên tắc của học thuyết luân lý liên quan đến hôn nhân: một học thuyết tuy căn cứ trên các định luật thiên nhiên, song lại được Thiên Chúa mặc khải, soi sáng và phong phú hóa thêm.

Cố nhiên không người giáo hữu nào phủ nhận quyền hạn của Giáo hội trong việc giải thích luật, dầu luật ấy là luật luận lý tự nhiên. Quả vậy, như các vị tiền nhiệm của Ta đã nhiều lần tuyên bố (Đức Piô IX trong Quipluribus, Đức Piô XI trong Casti Connubii, Đức Piô XII trong Magnificat Dominum, Đức Gioan XXIII trong Mater et Magistra), khi Chúa Giêsu Kitô trao quyền Thiên Chúa của mình lại cho Thánh Phêrô và các Tông đồ, sai các Ngài đi khắp các nước truyền rao các giáo huấn của Người (Mt 28,18-19), Chúa đã đặt các Ngài làm người chính thức bảo vệ và giải thích toàn thể bộ luật lý, không phải chỉ lề luật Phúc âm, mà cả các lề luật tự nhiên nữa, vì lề luật tự nhiên biểu lộ thánh ý của Chúa, và vì muốn được cứu rỗi, không thể không tuân hành luật lệ ấy được (Mt 7,21).

Với sứ mạng trên, Giáo hội thường xuyên ban hành một nền giáo huấn mạch lạc liên quan đến bản chất của hôn nhân cũng như về phương pháp sử dụng một cách đứng đắn quyền lợi của hôn nhân, và về nhiệm vụ của các đôi vợ chồng. Đặc biệt, trong thế kỷ hiện đại, các giáo huấn thuộc loại này được ban hành và phổ biến nhiều hơn bao giờ hết (Catechismus Concilii Tridentini, Divini Illius Magistri của Đức Piô XI, các diễn văn của Đức Piô XII, Mater et Magistra của Đức Gioan XXIII...)

Những nghiên cứu đặc biệt

5. Ý thức được sứ mạng Chúa giao phó, ta đã xác nhận và mở rộng Ủy ban nghiên cứu mà vị tiền nhiệm của Ta, Đức Gioan XXIII, đã thành lập từ tháng 3 năm 1963. Ủy ban này gồm nhiều chuyên viên thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, và cả một số người có đôi bạn, với các ý kiến liên quan đến các vấn đề mới thuộc lãnh vực "đời sống hôn phối", đặc biệt lưu ý vấn đề điều hòa sinh sản, để giáo quyền đầy đủ yếu tố, tài liệu cần thiết hầu trả lời thích đáng cho giáo dân cũng như cho dư luận thắc mắc của nhân loại (Diễn văn của Đức Phaolô VI ngày 23/6/1964, 24/3/1965, 29/10/1966).

Nhờ công việc nghiên cứu của Ủy ban nói trên, nhờ các ý kiến phán đoán, khuyến cáo của các chư huynh trong hàng Giám mục, hoặc tự ý, hoặc theo lời Ta yêu cầu đã gom góp thêm vào, Ta thấy có thể đánh giá, ước lượng mọi khía cạnh của vấn đề phức tạp này. Vì thế, Ta hân hoan và nhiệt thành gửi lời cám ơn tất cả các vị.

Câu trả lời của giáo quyền

6. Tuy nhiên, một điều cần phải nói ngay là các kết luận của Ủy ban trên đã đưa ra không thể coi như có tính cách quyết định và Ta nhận thấy có nhiệm vụ phải tự cứu xét thêm, lý do vì tính cách quan trọng của vấn đề cũng có, mà cũng vì các nhân viên trong Ủy ban không hoàn toàn đồng ý về các định luật luân lý sẽ đem ban hành, và chấp nhận là có một số tiêu chuẩn của các biện pháp đề nghị đã đối nghịch lại học thuyết luân lý về hôn nhân do giáo quyền chủ trương một cách kiên quyết từ trước đến nay.

Vì những lý do đó, sau khi đích thân xem xét các tài liệu đệ trình, sau khi cân nhắc cẩn thận, sau khi cầu xin Thiên Chúa ban ơn soi sáng, Ta sẽ nhân danh Chúa Kitô ủy thác, trả lời những vấn đề thắc mắc được nêu ra trong lãnh vực hôn nhân.

II. Các Nguyên Tắc Giáo Lý

Một ý thức trọn vẹn về con người

7. Cũng như tất cả các vấn đề liên quan đến đời sống con người, vấn đề sinh sản cần được ý thức và quan niệm không phải dưới một vài khía cạnh riêng biệt - như khía cạnh sinh lý, dân số và xã hội mà - phải lưu tâm toàn thể con người, đến ơn gọi thiên nhiên cũng như siêu nhiên, trần tục cũng như muôn đời của họ. Ngoài ra vì nhận thấy có nhiều người có khuynh hướng tìm cách chứng minh hợp pháp hóa các phương pháp nhân tạo để kiểm soát việc sinh sản bằng cách căn cứ vào các nhu cầu của tình yêu trong hôn nhân, và "trách vụ trở thành cha mẹ" của đôi vợ chồng, nên Ta sẽ minh xác quan niệm chính thống về hai thực tại quan trọng của đời sống trên đây. Lẽ tất nhiên trong lãnh vực này, Ta căn cứ trên những điều Công đồng Vatican II đã trình bày và quyết định trong Hiến chế mục vụ "Vui Mừng Và Hy Vọng" (Gaudium et Spes).

Tình yêu trong hôn nhân

8. Bản chất thực tiễn và sự cao quí của Tình yêu trong Hôn nhân được biểu lộ hoàn toàn khi người ta nhìn qua Nguồn gốc tối thượng của nó là Thiên Chúa Tình yêu (Ga 4,8), "là Cha toàn năng, nguồn mạch của mọi tình cha con, trên trời cũng như dưới đất" (Ep 3,15).

Chính vì thế nên hôn nhân không phải kết quả của ngẫu nhiên hay của các lực lượng tự nhiên, vô ý thức tạo thành. Trái lại, đó là một tổ chức khôn ngoan do Đấng Tạo Hóa vì tình thương đã thực hiện nơi nhân loại. Đôi vợ chồng cống hiến chính bản thân mình cho nhau, hòa đồng bản thể của đôi bên lại để hoàn thiện hóa cá nhân mình hầu cộng tác với Thiên Chúa trong việc lưu truyền sự sống và dưỡng dục các đời sống mới.

Hơn thế nữa, đối với những người đã chịu Phép Rửa tội. Hôn nhân còn mang sắc thái cao quý của Bí tích ơn nghĩa thánh, lý do vì hôn nhân tượng trưng sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo hội.

Các đặc tính của tình yêu trong hôn nhân

9. Được ý thức như thế, Hôn nhân sẽ bật nổi sáng chói với những đặc tính, những đòi hỏi đặc biệt của tình yêu hôn phối. Do đó chúng ta cần phải có một ý niệm xác thực về vấn đề này.

Trước tiên đó là một thứ tình yêu hoàn toàn nhân nghĩa là vừa hữu hình, và vừa siêu hình. Đây không phải chỉ là một việc di chuyển tình cảm và bản năng từ người này sang người kia, mà đó chính là một hành vi của lý trí và tự do, một hành vi cần được bảo vệ và gia tăng qua những vui buồn của đời sống thường nhật, để đôi vợ chồng trở nên một tâm hồn, tinh thần và cùng nhau đạt tới đỉnh hoàn thiện của nhân loại.

Ngoài ra đây còn là một thứ tình yêu trọn vẹn nghĩa là một hình thức đặc biệt của tình bạn cá nhân, nhờ đó hai vợ chồng cùng nhau chân thành yêu mến, chia sẻ mọi sự, không dấu diếm, không tính toán ích kỷ. Một người phối ngẫu yêu bạn mình không phải vì những cái bạn đã cho mình, mà chính vì bạn với niềm hân hoan vui sướng được lấy chính bản thân mình phong phú hóa cho bạn.

Đây cũng là một thứ tình yêu chung thủy và dành riêng cho một người cho đến lúc chết, và đó chính là cảm nghĩ của đôi vợ chồng ngày hai người tự ý, tự nguyện hiến trọn thân mình cho nhau khi nói lên lời giao ước hôn nhân. Lòng chung thủy ấy tuy đôi khi khó thực hiện, song ai cũng công nhận là có thể giữ được, và lòng chung thủy ấy là một thái độ cao quí, đáng trọng. Kinh nghiệm hôn nhân qua bao thế kỷ, với những cử chỉ đáng phục của muôn vạn người chồng trong các thế hệ chứng tỏ rằng lòng chung thủy không những hợp với bản chất của hôn nhân mà còn là nguồn hạnh phúc sâu xa bền vững.

Cuối cùng đây là một tình yêu phong phú không hề tiêu hao trong việc truyền thông giữa hai vợ chồng, trái lại đủ sức tiếp tục bằng việc tạo những đời sống mới. "Hôn phối và tình yêu trong hôn nhân, tự bản chất nó, được hướng về việc sinh sản và nuôi dưỡng con cái. Trên thực tế, con cái là ân huệ tối thượng của hôn nhân và mưu ích rất nhiều cho chính cha mẹ chúng" (Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ "Vui Mừng Và Hy Vọng" - Gaudium et Spes, số 50).

Trách nhiệm trở thành cha mẹ

10. Vì lý do trên tình yêu trong hôn nhân đòi hỏi đôi vợ chồng phải ý thức sứ mạng "trách nhiệm trở thành cha mẹ" của mình, một trách nhiệm mà người hiện đại thường xuyên nhắc tới và hết thảy chúng ta cần phải thấu hiểu ý nghĩa xác thực của nó, trách nhiệm ấy cần được cân nhắc, thảo luận dưới nhiều khía cạnh khác biệt nhưng liên hệ với nhau.

Xét về phương diện sinh lý học, nhận "trách nhiệm trở thành cha mẹ" tức là thấu hiểu và tôn trọng các tiến trình hoạt động của sinh lý: trí thức giúp ta khám phá ra khả năng sinh sản, định luật luân lý nằm ngay trong bản chất con người (Summa Theologiae, I-II, q. 94, art. 2).

Xét về phương diện các khuynh hướng của bản năng về tình dục, trách nhiệm trở thành cha mẹ có nghĩa là phải dùng lý trí và lòng cương quyết để điều khiển chúng.

Xét về phương diện các điều kiện thể lý, kinh tế, tâm lý và xã hội, trách nhiệm trở thành cha mẹ có nghĩa là: biết cân nhắc suy nghĩ để rồi sẵn sàng làm cho gia đình mình tăng thêm nhân số, hoặc để rồi căn cứ vào những lý do xác đáng, và trong tinh thần tôn trọng lề luật luân lý quyết định tạm ngưng việc sinh sản trong một thời gian ngắn hay vô hạn định.

Đặc biệt nhất là trách nhiệm trở thành cha mẹ bao hành sự tôn trọng trật tự luân lý do Thiên Chúa ấn định bằng cách biểu lộ một lương tâm ngay chính thẳng thắn. Vì thế việc đảm nhận trách nhiệm trở thành cha mẹ đòi hỏi đôi vợ chồng phải chu toàn nhiệm vụ đối với Thiên Chúa, với chính mình, với gia đình, xã hội trong tinh thần tôn trọng bậc thang chính thống của các giá trị. Chính vì thế nên trong lãnh vực lưu truyền sự sống, họ không có quyền tự do hành động theo sở thích, tự ý lựa chọn những phương pháp cho là chính đáng, trái lại, phải hướng hành động mình theo đúng thánh ý tạo dựng của Thiên Chúa, thánh ý đó được biểu hiện bằng chính bản chất và các hành vi của hôn nhân cũng như bằng các lời giáo huấn liên tục của Giáo hội (Hiến chế mục vụ "Vui Mừng Và Hy Vọng" - Gaudium et Spes, số 50 và 51).

Việc tôn trọng bản chất và cứu cánh của hành vi vợ chồng

11. Những hành vi của đôi vợ chồng dùng để kết hợp với nhau trong tình thân mật trong sạch hầu tạo thành và lưu truyền đời sống con người, là những "hành vi cao quí và chính đáng" (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 49). Đó là những hành vi hợp pháp, ngay cả trong trường hợp hai vợ chồng có thể đoán trước được là chúng sẽ không có hiệu năng sinh sản, vì những lý do ngoài ý muốn của mình: những hành vi ấy vẫn còn mục đích biểu lộ và làm cho sự liên kết của đôi vợ chồng thêm bền chặt. Trong thực tế, kinh nghiệm cho ta thấy: không phải mỗi hành vi, mỗi giao kết của hôn nhân đều tạo ra được một mầm sống mới. Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng đã thu xếp và thiết lập những định luật, những chu kỳ tự nhiên của mầm sống: Chính những chu kỳ ấy có sức giảm bớt số sinh. Tuy nhiên Giáo hội vẫn nhắc nhở loài người phải tuân hành các định luật tự nhiên và các lời giáo huấn của Giáo hội luôn luôn xác định rằng: Hành vi Hôn nhân phải hướng về việc lưu truyền đời sống (Thông điệp Casti Connubial của Đức Piô XI).

Hai khía cạnh bất khả phân ly: Giao hợp và Sinh sản

12. Nền giáo huấn của giáo quyền căn cứ trên nguyên tắc này: Thiên Chúa đã quyết định liên kết (và con người không ai có quyền tự ý hủy bỏ) hai sự việc của Hôn nhân giao hợp và sinh sản.

Quả vậy, tự bản tính sâu xa của nó, hành vi hôn nhân liên kết chặt chẽ hai vợ chồng, giúp họ tạo thành những đời sống mới theo đúng những định luật cố hữu nằm ngay trong bản thể con người đàn ông và đàn bà. Chỉ khi nào bảo vệ nổi hai hình thức cốt yếu căn bản là giao hợp và sinh sản, hành vi hôn nhân mới giữ được trọn vẹn ý nghĩa của một thứ tình yêu chân thành giữa hai tạo vật và đạt được mục đích sứ mạng cao cả của loài người là trở thành cha mẹ. Ta thiết nghĩ rằng, những con người của thời đại này đủ điều kiện để nhận thấy rằng nguyên tắc căn bản trên đây vừa hợp lý vừa xứng nhân bản.

Trung thành với ý định của Thiên Chúa

13. Đúng thế, người ta có thể ghi nhận rằng: bắt người phối ngẫu của mình phải chấp nhận một hành vi hôn nhân ngược với điều kiện thuận lợi, hoặc ý muốn của họ là một cử chỉ không xứng đáng với một thứ tình yêu chân thành và do đó, đi ngược hẳn lại với trật tự luân lý cần phải có trong mối liên quan giữa đôi vợ chồng. Ngoài ra, chỉ cần suy nghĩ kỹ, ta sẽ nhận thấy khi một hành vi hôn nhân giữa hai người phối ngẫu phá hoại khả năng lưu truyền đời sống, một khả năng mà Chúa tạo thành, đã liên kết hẳn với hành vi hôn nhân theo những định luật riêng, thì hành vi ấy trái ngược với ý định cấu tạo của hôn nhân cũng như với ý muốn của Đấng tạo thành đời sống. Vì thế, nếu người ta sử dụng quyền năng của Thiên Chúa ban để phá hủy - dù chỉ phá hủy một phần - ý nghĩa và cứu cánh của nó, thì người ta quả đã đi ngược lại bản tính mối tương quan sâu xa giữa người đàn ông và đàn bà, và đồng thời chống lại chương trình và ý muốn của Thiên Chúa. Trái lại, nếu chúng ta sử dụng quyền năng của tình yêu hôn nhân trong tinh thần tôn trọng các định luật diễn biến của mầm sống, thì mặc nhiên chúng ta công nhận rằng mình không nắm quyền "sinh sát" đối với nguồn mạch của đời sống con người, mà ngược lại, chúng ta đã giúp thực hiện các ý định của Chúa tạo thành. Nếu con người không có toàn quyền, một thứ quyền vô hạn đối với thân xác của mình, thì lẽ tất nhiên, họ cũng không có quyền hạn vô song đối với các khả năng tạo thành mầm sống (hiểu theo đúng nghĩa của chúng), vì các khả năng ấy có mục đích cố hữu là sinh ra sự sống, sự sống do chính Thiên Chúa là nguyên lý. Đức Gioan XXIII đã có dịp nhắc nhở điều này trong Thông điệp Mater et Magistra: "Đời sống con người là siêu việt: ngay từ nguyên thủy đời sống ấy đã trực tiếp mang dấu ấn bàn tay sáng tạo của Thiên Chúa".

Những phương tiện bất hợp pháp dùng để điều hòa sinh sản

14. Căn cứ vào những điểm cốt yếu trong quan niệm của Công giáo cũng như của con người về vấn đề hôn nhân, Ta thấy cần phải tuyên bố một lần nữa là: không thể nào chấp nhận - lý do vì việc đó bất hợp pháp - việc điều hòa sinh sản bằng cách trực tiếp ngăn chặn sự diễn biến đã khởi sự một mầm sống, và nhất là việc cố ý phá thai dù với lý do y tế cũng vậy (Catechismus Romanus Concilii Tridentini. Thông điệp Casti Connubii của Đức Piô XI, Gaudium et Spes của Công đồng Vatican II).

Ngoài ra, như giáo quyền đã nhiều lần tuyên bố, chúng ta không thể chấp nhận việc trực tiếp vô hiệu hóa khả năng sinh sản nơi người đàn ông hay đàn bà, dù là vĩnh viễn hay chỉ tạm thời trong một thời gian (Thông điệp Casti Connubii).

Chúng ta cũng không có quyền chấp nhận bất cứ một hành vi nào có mục đích hay dùng làm phương tiện để ngăn chặn việc sinh sản, hoặc trước khi hoặc đang khi làm hành vi hôn nhân, hoặc làm trở ngại việc diễn tiếp tự nhiên của hành vi ấy (Catechismus Romanus Concilii Tridentini, Thông điệp Casti Connubii, Mater et Magistra).

Chúng ta cũng không có quyền bào chữa cho những hành vi hôn nhân được cố tình vô hiệu quả, vì lẽ để tránh một tác hại nào đó hoặc với lý do các hành vi ấy đã là thành phần của những hành vi vốn có hiệu năng, xẩy ra trước hay sau, và vì thế cũng có giá trị như nhau. Trong thực tế, phải công nhận rằng: thỉnh thoảng người ta có quyền chấp nhận một tai hại nhỏ để tránh một tai hại lớn hoặc để thực hiện một việc tốt đẹp. (Diễn văn của Piô XII tại Hội nghị quốc gia các luật gia Công giáo Ý ngày 6/12/1953), nhưng không bao giờ ta được phép làm một việc ác để đạt tới một sự thiện (Rm 3,8) nghĩa là được phép tùy ý làm một việc tự bản tính nó vốn xấu hoặc một việc bất xứng với nhân cách, dầu là với mục đích bảo vệ hay tạo ra điều tốt cho cá nhân, gia đình hay xã hội. Chính vì lý do đó, ta không thể quan niệm rằng: một hành vi hôn nhân vốn dĩ xấu, vì được cố tình làm thành vô hiệu năng, lại có thể trở thành một hành vi tốt, dầu nó có phong phú hơn cho cả một cuộc đời của đôi bạn.

(còn tiếp)